Dương Khánh Linh
Tổng cộng: 5
-
Đe dọa hành hung và đặt điều nói xấu
Có người cầm dao qua trước nhà tôi đòi đâm, kiếm chuyện ra đường bêu rếu lăng mạ danh dự tôi. Trường hợp này nếu tôi làm đơn thưa thì phải đưa đơn tới nơi đâu giải quyết? và mức án như...
Luật sư Dương Khánh Linh đã trả lời
Đe dọa hành hung và đặt điều nói xấu
Cảm ơn chị Hằng đã tin tưởng và gửi câu hỏi.
Về vấn đề mà chị thắc mắc, Luật sư xin đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Thứ nhất, hành vi của người cầm dao đe dọa đòi đâm chị cũng như lăng mạ danh sự của chị có dấu hiệu cấu thành tội đe dọa giết người và tội vu khống, được quy định trong Bộ Luật Hình sự.
- Theo Điều 103 Khoản Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm\".
- Theo Điều 122 Khoản 1 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
- Mức phạt cao nhất mà người đó phải gánh chịu có thể lên đến 05 năm tù giam. Trong trường hợp sau khi kiểm tra, xác minh, hành vi của người đó chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, thì cơ quan Công an sẽ ra quyết định xử phạt hành chính, đồng thời, áp dụng một số biện pháp cần thiết để buộc người đó chấm dứt hành vi của mình.
Thứ hai, về việc tố giác cá nhân có hành vi cầm dao đến nhà đòi đâm chị và kiếm chuyện lăng mạ danh dự của chị.
- Theo Điều 101 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định:“Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác”.
- Theo Điều 103 Khoản 2, Khoản 3 Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định:
“2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết. Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.”
- Trường hợp này, chị nên đến cơ quan Công an huyện, quận, thị xã, nơi chị đang cư trú để tố giác người đó. Trong vòng 20 ngày, cơ quan điều tra mà chị đến tố giác sẽ thực hiện kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định có khởi tố vụ án hình sự hay không. Trong thời gian kiểm tra, xác minh, chị cũng có quyền yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ mình.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của chị Hằng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do chị Hằng cung cấp. Tư vấn nêu trên chỉ được coi là tài liệu tham khảo, tuyệt đối không được coi là ý kiến pháp lý chính thức cuối cùng của Luật sư để giải quyết hoặc làm việc với bên thứ ba.
Trân trọng!
Luật sư Dương Khánh Linh.
-
Bị lừa đảo giao dịch qua mạng
Luật sư cho em hỏi: Trường hợp của em là em có giao dịch với 1 người trên game và giao dịch qua ATM. Em đã bị lừa 1tr5 và không biết truy tố như thế nào? Nếu truy tố thì người đó có bị bắt không...
Luật sư Dương Khánh Linh đã trả lời
Bị lừa đảo giao dịch qua mạng
Cảm ơn bạn Phạm Nguyễn Đại Phước đã gửi câu hỏi.
Với thắc mắc của bạn, Luật sư xin đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Hành vi lừa đảo theo quy định của pháp luật được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm làm nạn nhân tin và tự nguyện giao tài sản. Theo đó, người giao dịch tài sản với bạn phải có hành vi như trên mới gọi là có hành vi lừa đảo.
Theo Điều 139 Khoản 1 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Trong tình huống này, bạn cho rằng người giao dịch với bạn đã lừa bạn 1.500.000 đồng.Như vậy, trường hợp này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định pháp luật, do tài sản phải có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên.
Tuy nhiên, nếu bạn có thể xác định người đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, bạn có giấy chuyển khoản thì được coi là tài liệu, chứng minh chứng cứ xác minh thông tin chủ tài khoản. Bạn có thể làm đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an nơi gần nhất nơi bạn cư trú kèm theo giấy chuyển khoản để được hỗ trợ. Tuy nhiên, việc bạn chỉ có thông tin là số tài khoản của người chiếm đoạt tài sản mà không có bất kỳ thông tin nào khác tương đối khó khăn trong việc điều tra và quá trình xử lý sẽ phải tiến hành trong khoảng thời gian dài.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của bạn Phạm Nguyễn Đại Phước. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do bạn Phước cung cấp. Tư vấn nêu trên chỉ được coi là tài liệu tham khảo, tuyệt đối không được coi là ý kiến pháp lý chính thức cuối cùng của Luật sư để giải quyết hoặc làm việc với bên thứ ba.
Trân trọng!
Luật sư Dương Khánh Linh
-
Chuyển chủ quyền đất
Gia đình em có bốn người ba mẹ em và 1 em gái. Bố em vô tình mất đột ngột không để lại di chúc. Nhà em chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ hồng) ba và mẹ em đồng đứng tên. Nay ba đã...
Luật sư Dương Khánh Linh đã trả lời
Chuyển chủ quyền đất
Cảm ơn bạn Võ Tấn Phước đã tin tưởng và gửi câu hỏi.
Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư xin đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Vấn đề thứ nhất: Thừa kế theo pháp luật.
- Vì ba của bạn mất đột ngột không để lại di chúc nên theo Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 quy định đây là trường hợp áp dụng “Thừa kế theo pháp luật”.
- Theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Khi ba bạn mất và không để lại di chúc, một nửa giá trị mảnh đất và căn nhà này sẽ thuộc về mẹ bạn, một nửa còn lại thuộc quyền sở hữu của ba bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
- Theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2014 quy định, những người thừa kế theo pháp luật của hàng thừa kế thứ nhất ở gia đình bạn bao gồm: Ông nội, bà nội, mẹ bạn, em gái của bạn và bạn. Như vậy, phần di sản của ba bạn sau khi chết sẽ được chia cho những người đã nêu ở trên, mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau. Đây sẽ là tài sản riêng của mỗi người, mỗi người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình.
- Tuy nhiên, nếu muốn chuyển giấy tờ sang cho mẹ đứng tên hoặc cả ba mẹ con đồng đứng tên thì bắt buộc phải có sự đồng ý của cả ông, bà nội - là đồng thừa kế theo pháp luật như trong Bộ luật dân sự 2015 quy định. Vì vậy, các giấy tờ liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong trường hợp của bạn đều cần ông nội, bà nội kí.
Vấn đề thứ hai: Thủ tục liên quan đến Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ nhất, tiến hành lập và công chứng “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Sau khi nộp phí công chứng và thù lao công chứng tại tổ chức công chứng nơi bạn yêu cầu công chứng, bạn được nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chứng nhận của tổ chức công chứng để tiến hành thủ tục đăng ký sang tên bạn theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, tiến hành đăng kí sang tên cho mẹ bạn trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Theo Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai quy định:
1. Người sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ thực hiện quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Trường hợp thực hiện quyền của người sử dụng đất đối với một phần thửa đất thì người sử dụng đất đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện đo đạc tách thửa đối với phần diện tích cần thực hiện quyền của người sử dụng đất trước khi nộp hồ sơ thực hiện quyền của người sử dụng đất.
2. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì thực hiện các công việc sau đây:
a) Gửi thông tin địa chính đến cơ quan thuế để xác định và thông báo thu nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định;
b) Xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trường hợp phải cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất;
c) Chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao Giấy chứng nhận cho người sử dụng đất hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.
…
Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật sư về câu hỏi của anh Võ Tấn Phước. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do anh Phước cung cấp. Tư vấn nêu trên chỉ được coi là tài liệu tham khảo, tuyệt đối không được coi là ý kiến pháp lý chính thức cuối cùng của Luật sư để giải quyết hoặc làm việc với bên thứ ba.
Trân trọng!
Luật sư Dương Khánh Linh.
-
Thủ tục giấy tờ đất
Kính nhờ luật sư tư vấn giúp em. Nhà em có 3 người gồm mẹ, anh 2 & em. Do ba em mất từ năm 1995, không có để lại di chúc nên hiện tại giấy tờ đất vẫn còn tên ba và mẹ. Vậy cho em hỏi bây giờ mẹ...
Luật sư Dương Khánh Linh đã trả lời
Thủ tục giấy tờ đất
Cảm ơn bạn Phan T. C. Hằng đã gửi câu hỏi.
Với thắc mắc của bạn, Luật sư xin đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Vấn đề thứ nhất: Áp dụng thừa kế theo pháp luật
- Vì ba của bạn mất năm 1995 không để lại di chúc nên theo Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 quy định đây là trường hợp áp dụng “Thừa kế theo pháp luật”.
- Theo Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”. Khi ba bạn mất và không để lại di chúc, một nửa giá trị mảnh đất và căn nhà này sẽ thuộc về mẹ bạn, một nửa còn lại thuộc quyền sở hữu của ba bạn sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
- Theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2014 quy định, những người thừa kế theo pháp luật của hàng thừa kế thứ nhất ở gia đình bạn bao gồm: Bà nội, mẹ bạn, anh hai và bạn. Như vậy, phần di sản của ba bạn sẽ được chia cho những người đã nêu ở trên, mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản bằng nhau. Đây sẽ là tài sản riêng của mỗi người, mỗi người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình.
- Tuy nhiên, nếu mẹ bạn muốn bán nhà thì phải được sự đồng ý của những đồng thừa kế theo pháp luật còn lại. Mặt khác, giả sử bạn và anh hai của bạn là người chưa thành niên thì tại Điều 141 Bộ luật dân sự 2015 quy định \" Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, mẹ bạn có quyền định đoạt tài sản riêng của anh hai của bạn và bạn - tức là không cần sự đồng ý của hai người nếu hai người chưa thành niên và việc định đoạt này phải phù hợp với lợi ích của bạn và anh hai của bạn.
Vấn đề thứ hai: Chi phí cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Khoản 2 Điểm b Thông tư số 02/2014/TT-BTC hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, việc cấp lại Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất có mức thu tối đa không quá 100.000 đồng/giấy đối với cấp mới. Thế nhưng, khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có thể có các loại lệ phí khác. Vì vậy,cần yêu cầu bên cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả lời về các khoản lệ phí phải nộp kèm theo căn cứ nộp những khoản tiền này để xem xét việc yêu cầu đóng lệ phí có hợp pháp hay không.
Trân trọng!
Luật sư Dương Khánh Linh.
-
Muốn tranh quyền nuôi con
Em trai tôi lấy vợ và có 1 bé gái. Xong mẹ cháu bé bỏ nhà ra ngoài xã hội làm các quán bar, karaoke cùng 1 thằng bảo kê không trở về nhà Từ mặt tất cả mọi người từ nhà chồng đến nhà bố đẻ....
Luật sư Dương Khánh Linh đã trả lời
Muốn tranh quyền nuôi con
Theo như câu hỏi chị Trần Hải Yến đưa ra không đề cập rõ em trai của chị đã ly hôn hay chưa ly hôn.
Vì vậy, Luật sư sẽ tư vấn theo trường hợp hai người vẫn còn duy trì mối quan hệ hôn nhân
Vấn đề thứ nhất: Hai người chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng nên bé gái này được xác định là con chung của vợ chồng em trai chị.
- Về cơ sở pháp lý, theo Điều 69, Điều 71 Khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
- Vì vậy, em trai chị hoàn toàn có quyền nuôi dưỡng bé gái là con chung của hai người. Việc người vợ bắt trộm con đi và ngăn cấm không cho em trai chị và gia đình chị gặp và nuôi dưỡng bé gái là vi phạm nghiêm trọng pháp luật hôn nhân và gia đình. Gia đình chị có thể tiến hành thương lượng với người vợ để giành quyền nuôi con. Nếu việc thương lượng không thành, em trai chị có thể kiện ra Tòa án để đòi quyền nuôi con. Tòa án sẽ xem xét hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của hai vợ chồng, nếu đúng như bé gái thường xuyên bị nhịn đói và bị nhốt ở nhà một mình khi ở cùng với mẹ thì Tòa án có thể ra quyết định giao quyền nuôi con cho gia đình em trai chị nuôi dưỡng do người vợ không đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con cái.
Vấn đề thứ hai: Người vợ có hành vi vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình, cụ thể:
Theo Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định: “Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;là vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình”.
Từ hai vấn đề đã trình bày ở trên, em trai chị có quyền đơn phương ly hôn và giành quyền nuôi con theo Điều 56 Khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Trân trọng!
Luật sư Dương Khánh Linh.