một vụ án mà bên cảnh sát hình sự điều tra quá lâu
luật sư cho em hỏi em là bị hại của 1 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản với hình thức nhận tiền nhưng không giao hàng, những bước đầu tiên đã gọi lên điều tra, thu thập chứng cứ nhưng kể từ đó đã 2 năm gần 3 năm trôi qua lúc nào em gọi hỏi tình hình cho bên công an ( cụ thể là điều tra viên phụ trách chính vụ án) thì đều nhận câu trả lời là đang đợi lấy sao kê, chưa lấy được sao kê,.... làm cho vụ án kéo dài rất lâu tới giờ chưa được giải quyết, tất cả chứng cứ rành rành em đã có rất nhiều nhưng mãi vụ án không có hồi kết, cho em hỏi lí do là gì và liệu có cách nào để xúc tiến vụ án này tiếp tục nhanh chóng không ạ
3 Luật sư trả lời
Chào em,
Nếu vụ việc của em có dấu hiệu của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì CÔng an cần xác minh thu thập và củng cố cơ sở để xác định có khởi tố vụ án, khởi tố bị can hay không. Tuy nhiên, theo em trình bày thì thời gian xử lý 2-3 năm như vậy là vi phạm quy định về thời hạn giải quyết tin tố giác được quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự, thời hạn giải quyết đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 20 ngày; trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng, có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Nếu bạn đợi chờ quá lâu mà không thấy tiến triển gì thì cần làm đơn gửi Văn phòng cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Huyện nơi bạn đang làm đơn tố giác để yêu cầu được phản hồi và phúc đáp kết quả giải quyết nguồn tin tố giác của bạn. Nếu việc trả lời đó không đúng hình thức, không đúng trình tự, không thỏa quy định pháp luật hoặc không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bạn, thì bạn làm đơn Khiếu nại được Cơ quan CSĐT CA Huyện, VKS cùng cấp và CQCSĐT Công an cấp tỉnh nơi bạn làm đơn tố giác để được xem xét lại.
Bạn có thể liên hệ địa chỉ Văn phòng Luật sư Triển Luật - số 213A Nguyễn Xí P13 Q Bình Thạnh TPHCM hoặc gọi điện thoại cho Luật sư Thảo số 0776820693 để tư vấn thêm nhé.
Trân trọng.
Luật sư Hồ Ngọc Hiền Thảo.
Chào bạn !
Về nội dung bản hỏi, Luật sư trả lời như sau:
Theo nội dung bạn trình bày thì xác định rằng sau khi xảy ra sự việc, bạn đã có Đơn trình báo và Tố giác gửi đến cơ quan Cảnh sát Điều tra cấp huyện hoặc tỉnh, thành phố nơi bạn sinh sống và xảy ra sự việc.
Căn cứ theo Điều 9 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định:
"Điều 9. Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý, giải quyết hoặc ra Quyết định phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức, chỉ đạo thụ lý, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết, cấp trưởng Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trực tiếp chỉ đạo việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, phân công Cán bộ điều tra thuộc quyền hoặc ra Quyết định phân công cấp phó trong việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu của tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì cấp trưởng ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
3. Kết thúc quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan đã thụ lý, giải quyết phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Việc tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều 148, Điều 149 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015."
* Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được quy định như sau:
- Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm.
- Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết có thể kéo dài thời hạn giải quyết nhưng không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết.
- Trường hợp sắp hết thời gian sau khi gia hạn lần thứ nhất nhưng chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh thì chậm nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.
- Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị nêu trên, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phải xem xét, quyết định. Trường hợp đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết là có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong trường hợp được Viện trưởng ủy quyền hoặc phân công) ra Quyết định gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh; thời hạn gia hạn kiểm tra, xác minh là không quá 02 tháng kể từ ngày hết thời hạn lần thứ nhất.
Như vậy thời gian tối đa giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tối đa không quá 4 tháng.Trong trường hợp đã hết 4 tháng mà chưa xác định được tội phạm hoặc chưa đủ căn cứ để ra các quyết định khởi tố vụ án, chờ kết quả xác minh, cung cấp chứng cứ… thì phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đến khi có chứng cứ mới hoặc có cơ sở chứng minh tội phạm thì Cơ quan Cảnh sát điều tra phục hồi điều tra và tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định.
Các trường hợp tạm đình chỉ điều tra hình sự
Căn cứ quy định tại Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
- Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;
- Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;
- Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ.
Căn cứ quy định tại Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
- Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015;
- Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Quy định phục hồi điều tra hình sự
Căn cứ quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.
Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trên đây là nội dung trả lời của Luật sư !
Trân trọng !
Luật sư Nguyễn Anh Tuấn.
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư