HỢP ĐỒNG MUA VACCINE COVID-19 TRONG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT VÀ VẤN ĐỀ CHẤP THUẬN MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ CUNG CẤP

Tối 19.6, người xem truyền hình hào hứng đến ngỡ ngàng khi chứng kiến trận đấu bóng đá giữa Hungary và Pháp ở sân vận động Puskas Arena, khi có khoảng 60.000 khán giả không cần đeo khẩu trang hò hét cổ vũ cuồng nhiệt, ở đây cuộc sống gần như bình thường trong một sự kiện thể thao tầm cỡ châu lục, cuộc sống như không hề có Covid-19. Thủ tướng Hungary Viktor Orban tuyên bố “Chúng ta đã đánh bại làn sóng Covid-19 thứ 3”, ông khẳng định Hungary hiện là “đất nước an toàn nhất châu Âu”.[1] Điều đó không tự nhiên, mà bởi theo trang Our World in Data, tính đến ngày 15/6, vào trước thời điểm trận đấu diễn ra vài ngày, 9,4 triệu liều vaccine Covid-19 đã được tiêm cho người dân Hungary. Trong đó, hơn 4,1 triệu người đã tiêm đủ 2 liều, chiếm 44,22% dân số. Hơn 5,3 triệu người tiêm ít nhất một liều vaccine, chiếm 55,52%.[2] Không khí ở Puskas Arena là hình ảnh mà thế giới khao khát, khao khát về một môi trường sống bình an không dịch bệnh chứ không chỉ là khao khát được thưởng thức một trận cầu hấp dẫn của giải đấu Euro.
Tầm quan trọng của việc tiêm vaccine để có thể đạt đến miễn dịch cộng đồng là điều mong muốn của bất kỳ Chính phủ nào. Việc chạy đua mua bằng được vaccine trong điều kiện buộc phải chấp thuận những nhượng bộ nhiều khi vô lý đối với các hãng dược như vấn đề miễn trừ trách nhiệm liên quan đến việc sử dụng vaccine, là điều mà nhiều quốc gia đang buộc phải lựa chọn, không còn đường khác. Vậy điều đó sẽ dẫn đến những rủi ro gì cho Chính phủ, cho người dân sử dụng và thực tế Việt Nam đang triển khai mua vaccine trong điều kiện đặc biệt đó như thế nào dưới góc độ pháp lý?
Mua vaccine trong trường hợp đặc biệt được quy định như thế nào?
Cũng trong ngày 19.6, Chính phủ ban hành Nghị quyết 61/NQ-CP về mua vaccine phòng COVID-19 AZD1222 do AstraZeneca (AZ) sản xuất của Công ty cổ phần vaccine Việt Nam (VNVC). Nghị quyết của Chính phủ đồng ý việc Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu.
Theo nội dung Nghị quyết, thì Chính phủ đồng ý đối với quyết định của Thủ tướng về việc chấp thuận hay không chấp thuận việc các doanh nghiệp của Việt Nam được phép nhập khẩu vaccine dựa trên hồ sơ được đệ trình, sau đó Bộ Y tế sẽ mua lại vaccine để cấp phát tiêm chủng cho người dân theo quy định. Hiện nay, Bộ Y tế công bố danh sách 36 đơn vị được cấp phép chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phạm vi nhập khẩu vaccine, kinh doanh dịch vụ bảo quản vaccine, trong đó có vaccine COVID-19.[3] Do đó, trong thời gian tới, không chỉ là đối với hợp đồng của VNVC mà còn các hợp đồng tương tự của các doanh nghiệp khác cũng phải qua các công đoạn phê duyệt tương tự. Điều đó đặt ra yêu cầu cần có quy định cụ thể và thống nhất để đảm bảo quy trình mua vaccine vừa được thực hiện đúng luật, vừa đảm bảo quyền lợi của chuỗi các bên liên quan, bao gồm Nhà nước, doanh nghiệp và người dân sử dụng.
Vậy nhưng, theo quy định hiện hành, trường hợp mua vaccine không thuộc danh mục các gói thầu, nội dung mua sắm đặc biệt được hướng dẫn tại Quyết định số 17/2019/QĐ-TTg. Trong khi đó, nếu sử dụng hướng dẫn về lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại các Điều 73, Điều 74 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP thì lại không phù hợp bởi hướng dẫn đó là hướng dẫn vấn đề đầu tư chứ không phải hướng dẫn cho việc thực hiện một gói thầu tương tự như mua vaccine. Điều 26 Luật đấu thầu lại đơn giản và ngắn ngủi, không thể là một quy trình chặt chẽ để làm thước mực cho một việc hệ trọng và phức tạp như mua hàng trăm triệu liều vaccine cho việc tiêm chủng toàn dân.
Trên thực tế, thẩm quyền quyết định việc mua vaccine của cá nhân Thủ tướng trong trường hợp đặc biệt không chỉ được quy định trong Luật Đấu thầu mà còn được chỉ rõ tại Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 26.2.2021 về mua và sử dụng vaccine phòng Covid-19, theo đó Nghị quyết này nêu rõ Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc mua vaccine trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu năm 2013 theo đề nghị của Bộ Y tế.[4] Theo quy định của Quy chế làm việc của Chính phủ theo Nghị định 138/2016/NĐ-CP thì quyền hạn của tập thể Chính phủ là khác với quyền hạn của cá nhân Thủ tướng. Thế nên chuyện Luật trao quyền cho Thủ tướng nhưng thực tế quyết định bằng các Nghị quyết của tập thể Chính phủ cho thấy chưa có sự đồng bộ trong thực thi quy định, do đó cũng cần xác định rõ thẩm quyền và làm rõ quy trình thực hiện để có đảm bảo thuận lợi trong công việc cũng như xác định rõ trách nhiệm đối với vấn đề được luật giao thực hiện.[5]
Những vấn đề đó cho thấy vẫn có điều gì đó lấn cấn, vẫn có những cách thức áp dụng các quy định chưa thực sự thống nhất. Trở lại với hợp đồng của VNVC mua vaccine từ AZ, thực tế trước khi có Nghị quyết 61/NQ-CP chấp thuận thì Bộ Y tế đã đặt mua thông qua VNVC và đã có 2 lô vaccine AstraZeneca về Việt Nam trước ngày Nghị quyết 61/NQ-CP được ban hành. Theo đó, lô đầu tiên gồm 117.600 liều về ngày 24.2, lô thứ 2 với số lượng 288.000 liều đã về đến sân bay Tân Sơn Nhất đêm khuya ngày 25.5. Bên cạnh đó, còn có 2 lô vaccine phòng COVID-19 AstraZeneca đã về Việt Nam theo cơ chế Covax[6] về ngày 1.4 với 811.200 liều, về ngày 16.5 với 1,682 triệu liều.[7] Như vậy, vaccine do VNVC đàm phán mua rất cấp thiết phải có mặt ở Việt Nam sớm trước cả khi được phê duyệt theo Nghị quyết 61/NQ-CP. Giả sử rằng, các quy trình không đúng, chất lượng, giá cả và các vấn đề phát sinh liên quan có trục trặc, không có một Nghị quyết hay Quyết định của Thủ tướng chấp thuận thì hậu quả liên đới cho vấn đề mua vaccine ai sẽ gánh, những rắc rối xảy ra sẽ dẫn đến đâu. Ngoài ra, chuyện mua vaccine không chỉ là vấn đề nhập khẩu, các quy định liên quan cũng cần làm rõ quy trình mua vaccine nhập khẩu thì khác mua vaccine do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra sao, vấn đề trách nhiệm miễn trừ trong trường hợp khẩn cấp có sự công bằng giữa các doanh nghiệp trong cùng điều kiện hay là không. Bởi lẽ, hiện nay, Công ty cổ phần công nghệ sinh học dược Nanogen, một trong bốn đơn vị sản xuất vắc xin ngừa COVID-19 của Việt Nam, vừa có văn bản kiến nghị Thủ tướng về việc xin cấp phép khẩn cấp cho vắc xin Nano Covax, theo đó đơn vị này cho biết hiện vừa kết thúc thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 và 2, đang triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 trên quy mô 13.000 người. Dựa trên các kết quả thử nghiệm lâm sàng, khả năng sinh miễn dịch của vắc xin Nano Covax đạt 99,4%, không hề thua kém với vaccine đang nhập khẩu, đồng thời giá bán dự kiến hiện đang thấp nhất thế giới, chỉ với 120.000 đồng/liều.[8]
Càng bị đặt vào tình thế cấp bách, chúng ta càng thấy rằng cần có những quy định rõ ràng để, dù trong tình thế khẩn cấp nhưng việc mua vaccine cũng phải được đặt trong một quy trình chặt chẽ để giảm thiểu rủi ro. Luật pháp không phải khi nào cũng dự liệu được những vấn đề mà cuộc sống cần, do đó bổ sung những quy phạm hoàn thiện cho điều mà cuộc sống đặt ra luôn là đòi hỏi cần thiết.
Trách nhiệm nào được miễn trừ và hậu quả của việc miễn trừ trách nhiệm khi mua vaccine trong trường hợp đặc biệt?
Ngoài một số điều kiện cần thiết khác để phê duyệt 30 triệu liều vắc xin AZD1222 của VNVC đã mua của AZ thì Nghị quyết số 61/NQ-CP cũng chấp nhận các nội dung được cho là những điều kiện miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp vaccine với các nội dung: (i) Điều khoản miễn trừ trách nhiệm đối với các khiếu nại phát sinh từ hoặc liên quan đến vaccine hoặc việc sử dụng vaccine cho AstraZeneca và VNVC; (ii) VNVC có thể giao hàng không đúng tiến độ.[9]
Như vậy, hai trong những vấn đề quan trọng cốt lõi nhất của một hợp đồng mua vaccine Covid-19 là trách nhiệm đối với những biến cố có thể xảy ra khi sử dụng vaccine, tiến độ giao hàng trong điều kiện cần kíp hiện nay chúng ta buộc phải nhượng bộ. Với các vaccine từ các nhà sản xuất đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) phê duyệt sử dụng trong tình trạng khẩn cấp (AstraZeneca, Pfizer, Moderna, Sinopharm, Johnson & Johnson,…), quy trình nghiên cứu và phát triển nhanh bất thường so với thường lệ, do đó nói rằng không có những rủi ro khi sử dụng là hoàn toàn lạc quan một cách không có cơ sở. Thế nhưng, phần lớn các quốc gia đều phải đồng ý với điều khoản miễn trừ các khiếu nại liên quan khi sử dụng vaccine.
Hiện nay Việt Nam đã đàm phán thành công với AstraZeneca, với Pfizer/BioNTech, với COVAX Facility và dự kiến sẽ có khoảng 110 triệu liều vaccine phòng COVID-19. Trong số này có 38,9 triệu liều vaccine từ chương trình Covax, 30 triệu liều từ AstraZeneca thông qua Công ty VNVC, 31 triệu liều từ Pfizer/BioNTech.[10] Các đàm phán đều phải nhượng bộ với các hãng dược về việc chấp nhận miễn trừ trách nhiệm đối với các khiếu nại phát sinh từ hoặc liên quan đến vaccine hoặc việc sử dụng vaccine.
Không chỉ là các đàm phán song phương giữa các bên, để nỗ lực dập dịch Covid-19, trong “Hướng dẫn xây dựng kế hoạch triển khai và tiêm chủng vaccine Covid-19 quốc gia” cập nhật ngày 1.6.2021 của WHO, phần miễn trừ trách nhiệm áp dụng cho nhóm AMC (92 nước thu nhập trung bình và thấp đang tham gia COVAX) nêu rõ: trước khi vaccine của một nhà sản xuất được phân bổ đến một nước AMC bất kỳ theo cơ chế COVAX, nước này cần phải ký thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm với nhà sản xuất tương ứng.[11]
Đứng trước yêu sách của các hãng dược lớn, nhưng điều cần kíp hơn là sinh mạng của người dân, nhiều quốc gia đã phải lựa chọn phải sửa đổi luật của quốc gia mình cho phù hợp[12], theo đó cần có khung pháp lý đảm bảo các Chính phủ được phép chấp thuận miễn trừ trách nhiệm cho các hãng dược đối với các rủi ro khi sử dụng vaccine, đồng thời cần có quy định để phân bổ ngân sách cho quỹ dự phòng bồi thường khi có những khiếu kiện liên quan đến việc sử dụng vaccine.
Hiện vấn đề bồi trường dân sự cho các rủi ro từ tiêm vaccine là điều phải tính đến, các quốc gia như Philippines đã phải sửa luật để dự liệu cần có nguồn quỹ cho việc giải quyết hậu quả của việc chấp thuận miễn trừ trách nhiệm cho các hãng luật trước khi nhận vaccine về.[13] Ở Mỹ, luật quy trách trách nhiệm bồi thường liên quan đến vaccine cho Chính phủ. Chính phủ Mỹ đã phân bổ khoản ngân sách 30 tỉ đô la Mỹ để chống dịch Covid-19, bao gồm chi phí hỗ trợ phát triển vaccine và bất cứ chi phí bồi thường nào có thể xảy ra.[14]
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 30 Luật Phòng, Chống bệnh truyền nhiềm năm 2007 thì trách nhiệm bồi thường liên quan đến quá trình sử dụng vaccine được xác định như sau: (i) Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc xin, sinh phẩm y tế và người làm công tác tiêm chủng, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế có lỗi trong việc sản xuất, kinh doanh, bảo quản, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế thì phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình gây ra tai biến cho người được sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế theo quy định của pháp luật. (ii) Khi thực hiện tiêm chủng mở rộng, nếu xảy ra tai biến ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe hoặc gây thiệt hại đến tính mạng của người được tiêm chủng, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp xác định được lỗi thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc xin, sinh phẩm y tế hoặc người làm công tác tiêm chủng thì tổ chức, cá nhân này phải bồi hoàn cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Soi chiếu quy định đó với Nghị quyết số 61/NQ-CP thì thấy rằng không thể áp dụng quy định đó của luật một cách bình thường như với trường hợp mua vaccine, những trách nhiệm đáng ra thuộc về AZ hay VNVC trong quá trình sử dụng vaccine sẽ được loại trừ. Chúng ta chưa rõ vấn đề cụ thể được loại trừ là như thế nào thể hiện trong các hợp đồng mua vaccine nhưng về cơ bản, nếu Nghị quyết số 61/NQ-CP quy định chung như vậy thì trách nhiệm đang được đẩy sang phía Chính phủ tương tự như ở Mỹ, nghĩa là Nhà nước có trách nhiệm đứng ra bồi thường cho người dân khi có những rủi ro phát sinh trong quá trình tiêm chủng.
Hiện nay, vấn đề trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi gặp những rủi ro phát sinh khi tiêm vaccine đang được áp dụng theo Nghị định số 104/2016/NĐ-CP. Theo đó, khi sử dụng vaccine trong Chương trình tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng chống dịch nếu xảy ra tai biến nặng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe hoặc gây thiệt hại đến tính mạng của người được tiêm chủng, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp được Nhà nước bồi thường bao gồm: (i) Người được tiêm chủng bị tai biến nặng để lại di chứng dẫn đến bị khuyết tật; (ii) Người được tiêm chủng bị tử vong.
Đối với trường hợp thiệt hại do để lại di chứng dẫn đến bị khuyết tật được bồi thường: 30 tháng lương cơ sở + chi phí do phải khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế + thiệt hại do thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút.[15]
Đối với thiệt hại đến tính mạng thì sẽ được hỗ trợ như sau: chi phí do phải khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế (trước khi tử vong) + Chi phí mai táng phí bằng 10 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định + Chi bù đắp tổn thất về tinh thần là 100.000.000 đồng cho thân nhân của người bị thiệt hại + Chi phí do thu nhập bị mất hoặc giảm sút.
Trình tự thủ tục bồi thường trong các trường hợp nêu trên đã được Nghị định 104/2016/NĐ-CP quy định khá rõ và chi tiết.
Như vậy, trước hệ quả rủi ro liên quan đến việc sử dụng vaccine, luật hiện hành ở Việt Nam đã có quy định quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, trong khi đó, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân cung cấp vaccine sẽ được miễn trừ theo thỏa thuận tại các hợp đồng mua vaccine đã ký, vấn đề là chuyện miễn trừ này không được quy định trong luật hiện hành, nên Nhà nước bồi thường rồi lấy nguồn đâu để bù đắp cho khoản Nhà nước phải bồi thường từ tiền thuế của người dân này là một khoảng trống chưa có lời giải.
Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện hợp đồng mua vaccine trong trường hợp chấp nhận miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp
Không phải ngẫu nhiên, một số quốc gia đã lúng túng và buộc phải có những thay đổi các đạo luật để đáp ứng được yêu cầu của các hãng dược lớn với những yêu sách không bình thường khi cung ứng vaccine. Do đó, từ thực tiễn ở Việt Nam, chúng tôi thấy rằng cũng cần hoàn thiện một số vấn đề liên quan để chuyện mua vaccine vừa đảm bảo đúng quy định pháp luật hiện hành đồng thời có cơ chế để thực tiễn thi hành các quy định hiệu quả trên thực tế.
Thứ nhất, Luật đấu thầu 2013 và các văn bản hướng dẫn hiện nay chưa quy định rõ quy trình cụ thể để Chính phủ, Bộ Y tế thực hiện các hoạt động phê duyệt chấp thuận nhà thầu mua vaccine trong trường hợp đặc biệt (như đại dịch Covid-19). Trên thực tế quá trình mua vaccine sẽ phải vận dụng những quyết định khác với quy trình mà Luật Đấu thầu hoặc các văn bản hướng dẫn luật này. Quyết định số 17/2019/QĐ-TTg và Nghị định số 25/2020/NĐ-CP là các văn bản có nội dung hướng dẫn Điều 26 Luật Đấu thầu 2013 nhưng không được dùng làm căn cứ cho việc ban hành Nghị quyết số 61/NQ-CP để mua vaccine bởi các quy định của hai văn bản này không áp dụng được cho trường hợp mua vaccine Covid-19 với những điều kiện đặc thù. Do dó, cần bổ sung các quy định phù hợp để có một quy trình chi tiết hướng dẫn việc mua vaccine trong trường hợp đặc biệt và cụ thể quy trình đố đối với các hãng dược trong nước, ngoài nước như thế nào một cách cụ thể.
Thứ hai, theo Điều 26 Luật đấu thầu thì người có thẩm quyền trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định phương án lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt[16]. Thế nhưng phạm vi xem xét, quyết định của Thủ tướng Chính phủ đến đâu, Thủ tướng được quyết định những vấn đề gì lại không được làm rõ. Từ việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 61/NQ-CP cho thấy, chưa rõ nếu không có Nghị quyết này thì Bộ Y tế, VNVC có được mua vaccine hay không. Bởi đây là Nghị quyết của Chính phủ đồng ý với quyết định của Thủ tướng, vậy nếu Thủ tướng quyết định rồi thì có cần phải có Nghị quyết của Chính phủ để quyết định duyệt mua vaccine Covid-19 hay không. Làm rõ phạm vi, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ trong những trường hợp đặc thù này trong văn bản luật cụ thể sẽ tránh được việc lúng túng trong việc áp dụng các văn bản, bởi chúng ta thấy nếu theo Điều 26 Luật đấu thầu thì rõ ràng quyền quyết định là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ chứ không phải của Chính phủ, hai chủ thể này là khác nhau.
Thứ ba, cần quy định rõ trong trường hợp đặc thù, khi trách nhiệm với những rủi ro được miễn trừ cho nhà cung cấp vaccine thì trách nhiệm đó được chuyển sang cho Nhà nước, do vậy cơ chế, phương thức thực thi trách nhiệm đó như thế nào, nguồn quỹ bồi thường cho những rủi ro phát sinh được sử dụng ở đâu cũng cần được quy định một cách rõ ràng để đảm bảo có cơ sở thực thi việc bồi thường cho người dân trong trường hợp gặp phải các rủi ro do sử dụng vaccine. Hơn nữa phải quy định rõ trong điều kiện cụ thể nào thì mới được miễn trừ các trách nhiệm đối với nhà sản xuất, doanh nghiệp nhập khẩu vaccine, cơ chế để bù đắp các thiệt hại phát sinh sẽ sử dụng nguồn nào với điều kiện ra sao, mức độ thế nào để tránh mọi rủi ro đều đánh vào tiền thuế người dân đóng, trong khi nếu có yếu tố lỗi nào đó xảy ra, người dân không hề hay biết mà vẫn bị đặt sinh mệnh và quyền lợi của mình vào hành vi đúng sai rất rủi may của người khác.
Thứ tư, cần quy định cơ chế giám sát đối với những gói thầu đặc biệt như mua vaccine Covid-19. Cơ chế giám sát nguồn quỹ để mua, cơ chế giám sát quy trình đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng không những đảm bảo người thực hiện làm đúng mà còn là nền tảng để những người này biết phải thực hiện theo trình tự nào, tránh rủi ro pháp lý cho họ trong quá trình thực hiện. Những vấn đề gì cần được thông tin, những nội dung nào phải minh bạch cũng là cơ chế để người dân, Quốc hội hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác giám sát được hành trình của những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với không chỉ vấn đề tài chính quốc gia mà còn là vấn đề y tế cộng đồng, sức khỏe toàn dân.
Thứ năm, hiện nay chúng ta cũng sử dụng vaccine thông qua COVAX, do đó ngoài việc sử dụng quy định trách nhiệm bồi thường các thiệt hại liên quan thuộc Nhà nước, thì cũng cần thông tin, hướng dẫn người dân vận dụng cơ chế No-Fault Compensation (Bồi thường không lỗi) của WHO đối với những người tham gia tiêm chủng loại vaccine được phân phối thông qua COVAX[17] để đảm bảo quyền lợi cho người dân và giảm thiểu các thiệt hại cho ngân sách.
Mua vaccine là yêu cầu cấp bách để người dân được tiếp cận kịp thời nhằm tiến đến miễn dịch cộng đồng, thế nhưng hoàn thiện các quy định của pháp luật để việc mua vaccine không bao gồm mang về những rủi ro mà Nhà nước và người dân phải gánh chịu là điều cần thiết như nhau. Hoàn thiện chính sách để trong một tình huống tương tự, mọi việc được quyết định nhanh chóng, kịp thời sẽ đảm bảo cho quyền lợi của người dân sớm được thực hiện, trong khi đó lại làm cho các quyết định của những người có thẩm quyền thực thi được an toàn vì được đảm bảo bởi hệ thống pháp lý đồng bộ rõ ràng và minh bạch. Hành lang pháp lý đó sớm được hoàn thiện vào lúc này là cần thiết hơn bao giờ hết.
LUẬT SƯ LÊ CAO – CÔNG TY LUẬT FDVN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Xem https://zingnews.vn/ly-do-gan-70000-cdv-hungary-lap-day-san-bong-du-khong-deo-khau-trang-post1228068.html, truy cập ngày 21.6.2021.
[2] Xem https://ourworldindata.org/, truy cập ngày 15.6.2021.
[3] Xem https://ncov.moh.gov.vn/en/-/6847426-4246, truy cập ngày 21.6.2021.
[4] Khoản 3, Điều 4, Nghị quyết số 21/NQ-CP.
[5] Nghị định 138/2016/NĐ-CP.
[6] Cơ chế “Tiếp cận toàn cầu với vắc xin ngừa COVID-19” (viết tắt là COVAX) là sáng kiến hợp tác toàn cầu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển và sản xuất các sản phẩm chẩn đoán và điều trị cùng với vắc xin (vaccine) ngừa COVID-19, đồng thời bảo đảm khả năng tiếp cận nhanh chóng, công bằng và bình đẳng trên toàn thế giới, ra đời năm 2020 lấy cảm hứng từ các chiến dịch tiêm chủng vắc xin ngừa bệnh Ebola ở Tây Phi. Đồng chỉ đạo COVAX có Liên minh toàn cầu về vắc xin và tiêm chủng (GAVI), Liên minh vì đổi mới phòng chống dịch bệnh (CEPI) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Về lộ trình vắc xin, mục tiêu của COVAX là phân phối 2 tỉ liều trước cuối năm 2021, trong đó 50% dành cho 92 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Trong năm 2020 đã có hơn 2 tỉ USD được huy động từ các chính phủ, tổ chức thiện nguyện và khu vực tư nhân. Tổng cộng sẽ có 337 triệu liều được phân phối cho 145 quốc gia và vùng lãnh thổ trước cuối tháng 6-2021. (Theo https://tuoitre.vn/co-che-covax-cap-vac-xin-covid-19-cho-viet-nam-hoat-dong-ra-sao-20210220173452646.htm), truy cập ngày 21.6.2021.
[7] Theo https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-dia-phuong/-/asset_publisher/gHbla8vOQDuS/content/them-288-000-lieu-vac-xin-phong-covid-19-cua-astrazeneca-ve-viet-nam.
[8] Theo https://tuoitre.vn/kien-nghi-cap-phep-khan-cho-vac-xin-viet-nano-covax-20210622142418776.htm?fbclid=IwAR1PNGzQahcv3HB2cwJ7ykIjt8wS0TO_3Y_h9535NRg3eeoVU35x2Z8fLPA, truy cập ngày 22.6.2021
[9] Nghị quyết số 61/NQ-CP ngày 19.6.2021.
[10] Xem https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-dia-phuong/-/asset_publisher/gHbla8vOQDuS/content/them-288-000-lieu-vac-xin-phong-covid-19-cua-astrazeneca-ve-viet-nam, truy cập ngày 21.6.2021.
[11] Yên Lam, Miễn trừ và trù trừ, Tuổi trẻ Cuối tuần, 13.6.2021.
[12] Xem https://tuoitre.vn/cuoc-choi-phap-ly-cua-ma-tran-nhap-vac-xin-20210404151015115.htm, truy cập 21.6.2021.
[13] Yên Lam, Miễn trừ và trù trừ, Tuổi trẻ Cuối tuần, 13.6.2021.
[14] Xem https://www.thesaigontimes.vn/307643/cuoc-van-dong-mien-tru-trach-nhiem-neu-xay-ra-rui-ro-voi-vaccine-covid-19.html, truy cập ngày 21.6.2021.
[15] Xem thêm Điều 15, Điều 16 Nghị định số 104/2016/NĐ-CP.
[16] Điều 26 Luật đấu thầu 2013.
[17] Xem http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2021-02-23/chuong-trinh-boi-thuong-cho-truong-hop-gap-phan-ung-phu-do-vacxin-100123.aspx, truy cập ngày 21.6.2021.
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: FDVN CHANNEL
Lĩnh vực Dân Sự
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư