2 Luật sư trả lời
Chào
bạn!
Đối
với trường hợp của bạn, tôi có ý kiến tư vấn như sau:
Pháp
luật Việt Nam luôn ưu tiên để đảm bảo sự phát triển tốt nhất của trẻ nhỏ, theo
quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa
vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan”.
Vì thông tin bạn cung cấp chưa rõ ràng, cụ thể nên theo quy định của pháp luật phân chia thành 03 trường hợp phân định quyền nuôi con khi ly hôn, như sau:
- Trường hợp con dưới 36 tháng tuổi: Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Theo đó, con dưới 36 tháng tuổi là giai đoạn cần sự chăm sóc nhiều nhất từ người mẹ, sẽ ưu tiên mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ xem xét lại người trực tiếp nuôi con.
- Trường hợp con từ đủ 36 tháng tuổi đến dưới 7 tuổi: Quyền nuôi con ở giai đoạn này của cha, mẹ là như nhau. Theo đó, người được nuôi con phải chứng minh được trước Tòa án về bản thân sẽ cung cấp môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của con và có đủ các điều kiện đảm bảo cả về kinh tế (về thu nhập, tài sản, nơi ở ổn định…) lẫn tinh thần (có đủ thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con...) đáp ứng cho yêu cầu phát triển của con.
- Trường hợp con từ đủ 7 tuổi trở lên: Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Con từ đủ 7 tuổi trở lên có khả năng nhận thức và tự quyết định sẽ sống với ai. Tuy nhiên, thì nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là một trong những yếu tố Tòa án phải xem xét trong quá trình giải quyết vụ án, việc quyết định giao con cho bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải tôn trọng
quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng. Cha, mẹ không trực
tiếp nuôi dưỡng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Trên
đây là ý kiến tư vấn của tôi, nếu bạn còn thắc mắc hoặc cần sự hỗ trợ pháp lý
nào khác, bạn vui lòng liên hệ theo thông tin dưới đây để được tư vấn:
Luật
sư Trương Công Sơn – Điện thoại: 089 661 6767
Công
ty Luật Quốc tế DSP – Địa chỉ: Số 87 Phạm Tứ, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
Thân
chúc bạn nhiều sức khỏe và thành công!
Luật sư Trương Công Sơn.
Chào
bạn!
Đối
với trường hợp của bạn, tôi có ý kiến tư vấn như sau:
Pháp
luật Việt Nam luôn ưu tiên để đảm bảo sự phát triển tốt nhất của trẻ nhỏ, theo
quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa
vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan”.
Vì thông tin bạn cung cấp chưa rõ ràng, cụ thể nên theo quy định của pháp luật phân chia thành 03 trường hợp phân định quyền nuôi con khi ly hôn, như sau:
- Trường hợp con dưới 36 tháng tuổi: Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Theo đó, con dưới 36 tháng tuổi là giai đoạn cần sự chăm sóc nhiều nhất từ người mẹ, sẽ ưu tiên mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ xem xét lại người trực tiếp nuôi con.
- Trường hợp con từ đủ 36 tháng tuổi đến dưới 7 tuổi: Quyền nuôi con ở giai đoạn này của cha, mẹ là như nhau. Theo đó, người được nuôi con phải chứng minh được trước Tòa án về bản thân sẽ cung cấp môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của con và có đủ các điều kiện đảm bảo cả về kinh tế (về thu nhập, tài sản, nơi ở ổn định…) lẫn tinh thần (có đủ thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con...) đáp ứng cho yêu cầu phát triển của con.
- Trường hợp con từ đủ 7 tuổi trở lên: Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Con từ đủ 7 tuổi trở lên có khả năng nhận thức và tự quyết định sẽ sống với ai. Tuy nhiên, thì nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên chỉ là một trong những yếu tố Tòa án phải xem xét trong quá trình giải quyết vụ án, việc quyết định giao con cho bên nào trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải tôn trọng
quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi dưỡng. Cha, mẹ không trực
tiếp nuôi dưỡng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Trên
đây là ý kiến tư vấn của tôi, nếu bạn còn thắc mắc hoặc cần sự hỗ trợ pháp lý
nào khác, bạn vui lòng liên hệ theo thông tin dưới đây để được tư vấn:
Luật
sư Trương Công Sơn – Điện thoại: 089 661 6767
Công
ty Luật Quốc tế DSP – Địa chỉ: Số 87 Phạm Tứ, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
Thân
chúc bạn nhiều sức khỏe và thành công!
Luật sư Trương Công Sơn.
Lĩnh vực Hôn nhân gia đình
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư