BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN CỦA TÌNH THẾ CẤP THIẾT ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?

Bài viết pháp luật được tư vấn chuyên môn bởi Luật sư Dương Hoài Vân.
Luật sư Dương Hoài Vân hiện tại đang giữ chức vụ Giám đốc của Công ty Luật TNHH Một thành viên Vân Hoàng Minh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Luật sư Dương Hoài Vân có 16 năm kinh nghiệm trong các lĩnh vực Doanh nghiệp, Hôn nhân & Gia đình, Di chúc - Thừa kế, Dân sự, Hình sự, Lao động - Bảo hiểm xã hội, Đầu tư,...
1. Gây thiệt hại do tình thế cấp thiết là gì?
Theo
quy định tại Điều 171 của BLDS 2015:
“Tình
thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa
trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người
khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn
thiệt hại cần ngăn chặn.”
Theo đó, chủ thể gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết được loại trừ trách nhiệm bồi thường.
2. Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ
nhất, phải có nguy cơ đang thực tế đe dọa
cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác. Nguồn gốc gây nên sự nguy hiểm đối với lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo
vệ có thể là do: hành vi nguy hiểm của con người, tác động của thiên nhiên (lũ,
lụt, cháy, sét đánh v.v…). Ở đây cần lưu ý là nguy cơ đe dọa gây thiệt hại
nhưng thiệt hại chưa xảy ra. Chính vì vậy, bản thân người gây thiệt hại phải
căn cứ, cân nhắc, tính toán về nguy cơ này. Đây là sự nguy hiểm
đang đe dọa gây ra thiệt hại phải là sự nguy hiểm đe dọa ngay tức khắc thì mới
được coi là trong trường hợp tình thế cấp thiết. Nếu sự đe dọa đó còn chưa xảy
ra mà đã hành động để gây thiệt hại thì không thể coi là gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết. Nếu sự đe dọa này chỉ theo suy đoán chủ quan của người gây
thiệt hại, thực tế có thể xảy ra hoặc không mà người đó đã có hành vi gây thiệt
hại thì cũng không thể coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.
Thứ
hai, sự đe dọa thiệt hại trong tình thế cấp
thiết phải có thật, đang xảy ra và chưa kết thúc. Ở đây có thể hiểu nếu không
có hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì hậu quả tất yếu sẽ xảy
ra. Điều kiện thứ hai này cho thấy mối quan hệ nhân quả giữa sự nguy hiểm với lợi
ích cần bảo vệ. Sự nguy hiểm tuy mới đang đe doạ ngay tức khắc đến các lợi ích
cần bảo vệ, nhưng phải là sự nguy hiểm thực tế, phải có thật, tồn tại khách
quan, không phải do người gây thiệt hại tưởng tượng ra. Có thể nói nguồn nguy
hiểm đang xảy ra có quan hệ nhân quả với những thiệt hại cho lợi ích hợp pháp
có nguy cơ thực tế sẽ xảy ra.
Thứ
ba, việc gây thiệt hại trong tình thế cấp
thiết là biện pháp duy nhất để khắc phục nguy cơ đó. Để được coi là gây thiệt hại
trong tình thế cấp thiết thì việc gây thiệt hại phải là biện pháp duy nhất để
khắc phục nguy cơ đó. Như đã phân tích ở trên, bản thân người gây thiệt hại phải
có sự cân nhắc, tính toán về nguy cơ thiệt hại sắp xảy ra nên có sự suy xét xem
hành vi gây thiệt hại của mình trong tình huống đó có phải là biện pháp duy nhất
để khắc phục thiệt hại hay không. Người gây ra thiệt hại không còn biện pháp
nào khác để lựa chọn để cứu lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính
đáng của cá nhân người thực hiện hành vi hoặc của người khác.
Thứ
tư, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp
thiết phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Khi gây thiệt hại trong tình thế cấp
thiết bản thân người gây thiệt hại phải cân nhắc, tính toán giữa thiệt hại mà
mình sắp gây ra và hậu quả có thể xảy ra cho đối tượng mà mình sắp bảo vệ khi
có nguy cơ đe dọa gây thiệt hại. Do đó, chỉ được coi là thiệt hại do yêu cầu của
tình thế cấp thiết nếu thiệt hại xảy ra nhỏ hơn với thiệt hại cần ngăn ngừa.
Như
vậy, để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về mặt dân sự phải tuân thủ các điều kiện
trên.
3. Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết như thế nào?
Như vậy vi phạm một trong bốn điều kiện trên thì chủ thể gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 595 BLDS 2015: “Trường
hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây
thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế
cấp thiết cho người bị thiệt hại.”
Theo
quy định trên, chủ thể gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết chỉ phải bồi thường
phần vượt quá phần lợi ích cần hy sinh để bảo vệ phần lợi ích lớn hơn. Phần lợi
ích cần hy sinh thuộc trách nhiệm bồi thường của chủ thể đã gây ra tình thế cấp
thiết. Chính vì vậy, để xác định một hành vi gây thiệt hại có phải thuộc
tình thế cấp thiết hay không thì phải so sánh được giữa phần lợi ích được hy
sinh và lợi ích được bảo vệ.
Trên đây là nội dung bài
viết về “Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết theo
quy định pháp luật” V&HMLaw gửi đến bạn đọc, nếu có gì thắc mắc xin vui lòng liên hệ V&HM Law để được giải
đáp.
Nếu bạn cần tư vấn,
cần luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và hỗ trợ thực hiện các thủ tục
theo đúng quy định pháp luật, bạn có thể liên hệ với V&HM Law qua số điện
thoại: 098.449.9996 hoặc 098.515.8595 (Luật sư Dương Hoài Vân) hoặc đến trực tiếp
Văn phòng Công ty Luật TNHH Một thành viên Vân Hoàng Minh tại: 422 Võ văn Kiệt,
Phường Cô Giang, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc văn phòng giao dịch của
Công ty Luật TNHH Một thành viên Vân Hoàng Minh tại: 158/1A Nguyễn Sơn, P.Phú
Thọ Hòa, Quận Tân Phú (Tầng 2).
Trân trọng./.
Lĩnh vực Dân Sự
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư