Luật bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn
Xét ở góc độ giới và gia đình, từ xa xưa cho đến nay, khi ly hôn phần thiệt thòi luôn là người phụ nữ. Sau ly hôn rất nhiều người phụ nữ không đi bước nữa mà ở vậy nuôi con và đa số họ đều gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Đặc biệt là đối với những người phụ nữ dành cả tuổi thanh xuân để đứng sau ủng hộ sự thành công của chồng, làm một người nội trợ đảm đang đúng kiểu mẫu “dâu hiền - vợ thảo”. Có nên chăng họ cần được bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn?
Mặc dù hiện nay pháp luật cũng đã rất chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ, tuy nhiên pháp luật chưa có quy định về việc bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn cho họ. Pháp luật có quy định về việc công nhận sự thỏa thuận ly hôn của vợ chồng, nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận được nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn (Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Điều này có thể nói là một trong những quy định bảo vệ người phụ nữ khi ly hôn của pháp luật.
Tuy nhiên pháp luật cũng đã quy định những quyền lợi của phụ nữ khi ly hôn bao gồm:
Thứ nhất, có thể nói điều mà người phụ nữ quan tâm nhất khi ly hôn đó chính là quyền nuôi con:
Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Như vậy, đối với con dưới 36 tháng tuổi quyền nuôi con thuộc về người phụ nữ, trừ khi họ không đủ điều kiện để nuôi con.
Thứ hai, khi người phụ nữ trực tiếp nuôi con thì họ sẽ được nhận được sự hỗ trợ từ chồng thông qua việc cấp dưỡng cho con:
Khoản 1 Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình”.
Thứ ba, sau quyền nuôi con là quyền chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn:
Đối với tài sản chung sẽ do vợ chồng tự thỏa thuận về cách phân chia, nếu không thỏa thuận được Tòa án sẽ giải quyết theo nguyên tắc sau:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa có quy định về bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn cho phụ nữ nhưng đã có những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn.
Luật sư Phạm Thị Nhàn chia sẻ những kiến thức nhất định cần phải biết khi ly hôn.
Luật sư Phạm Thị Nhàn tốt nghiệp Đại Học Luật Tp.HCM - ngành Luật Quốc Tế (năm 2006); Khóa đào tạo Luật sư (năm 2007); Cao học Luật Kinh tế 2012. Luật sư đã có thời gian công tác tại Sở Tư Pháp tỉnh Bình Dương, Vingroup và nhiều công ty Luật. Luật sư có thế mạnh chuyên môn trong các lĩnh vực tố tụng tại Tòa án: Đất đai, Hôn nhân gia đình.
Năm 2020, Luật sư Phạm Thị Nhàn đã tư vấn và hỗ trợ hơn 100 vụ việc ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương (chia tài sản và giành quyền nuôi con) cho các thân chủ.
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Thanh Thanh tư vấn: Phân chia tài sản khi ly hôn.
Luật sư Nguyễn Thanh Thanh có hơn 12 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Tranh tụng, Hình sự, Hành chính, Đất đai, Lao động, Kinh doanh, Thương mại.
Luật sư Nguyễn Thanh Thanh hiện là Luật sư điều hành của TP Law Firm. Với nhiều năm kinh nghiệm trong nghiên cứu và tham gia tranh tụng, Luật sư Thanh đã giúp bảo vệ quyền lợi của khách hàng một cách xuất sắc.
Bạn vẫn còn thắc mắc, hay đang gặp rắc rối trong lĩnh vực hôn nhân gia đình?. Hãy chọn ngay một Luật sư phù hợp và liên hệ với Luật sư đó để được tư vấn miễn phí.
TIN LIÊN QUAN:
Dịch vụ pháp lý trọn gói: LY HÔN THUẬN TÌNH
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư
