Nguyễn Trung Hiếu
Tổng cộng: 999
-
Bắt con về
Tôi đã có bán án của tòa án cấp tỉnh vào ngày 23/7/2023 tại TAND Vĩnh Long, nhưng đơn vị thi hành án làm việc rất chậm, tới bây giờ chỉ mới gửi ủy thác về Năm Căn Cà Mau, tôi biết được đơn vị dưới ấy làm ăn rất thiếu trách nhiệm ngại khó khăn đường xa nên lấy đủ lý do làm chậm bản án, tôi có thuê một luật sư nhưng tôi thấy luật sư này làm ăn rất thiếu trách nhiệm, vì vậy tôi xin được hỏi luật sư có thể nhận giải quyết vụ án này được không, nếu được xin email hoặc điện thoại để tui gặp trực tiếp và trao đổi chi tiết
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Bắt con về
Chào bạn, Luật sư Chân Thiện Mỹ tư vấn cho bạn như sau:
Vì thông tin bạn cần cung cấp không cụ thể, để hỗ trợ bạn thì bạn cần cung cấp thêm thông tin chi tiết cho chúng tôi.
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư của Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ: Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Giảm án
E muốn tìm luật sư giảm án ma túy đá cho người thân
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Giảm án
Chào bạn, Luật sư Chân Thiện Mỹ tư vấn cho bạn như sau:
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư của Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ: Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
-
Thủ tục ly hôn đơn phuơng nhanh
Dạ cho e hỏi em muốn làm thủ tục ly hôn đơn phuơng nhanh , Hiện em đang ở Huế, còn bên chồng e thì ở đồng nai ạ. Và không tranh chấp tài sản không dành quyền nuôi con , thì chi phí trọn gói bao nhiêu ạ
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Thủ tục ly hôn đơn phuơng nhanh
Chào bạn, Luật sư Chân Thiện Mỹ tư vấn cho bạn như sau:
Đối với vấn đề của bạn. Do chưa nhận được thông tin cụ thể, để được tư vấn, hỗ trợ, bạn vui lòng liên hệ cho chúng tôi theo thông tin sau:
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư của Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ: Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
-
Câu hỏi về khói do đốt rác
Dạ hàng xóm nhà em có thù hằn với nhà em, thường xuyên chửi bới lớn tiếng bất kỳ lúc nào họ muốn, cửa nhà họ hướng vào vách nhà em cách hơn 10m, nhưng họ thường xuyên đem rác đến đốt ngay vách nhà em để khói bay vào nhà em, nhà em có ông đang hơn tám mưới tuổi cũng phải hít khói cùng, tình trạng này diễn ra đã hơn một năm. Hôm nay em có sang tranh cãi và hai bên lớn tiếng qua lại, song em không nói nữa mà bỏ về nhà, nhưng họ vẫn chửi em và chửi rất thậm tệ, còn chửi cả nhà em....., theo trường hợp này nếu em có thể quay video lại bằng chứng lại gửi cho cơ quan chức năng thì hàng xóm của em có bị phạt không ạ?
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Câu hỏi về khói do đốt rác
Chào bạn, Luật sư Chân Thiện Mỹ tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Thông tư 23/2012/TT-BCA quy định thì tổ dân phố là khu dân cư. Nên việc hàng xóm của bạn tự ý đốt rác trong khu dân cư là hành vi vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh chung tại điểm b, Khoản 2 Điều 7 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Cho nên bạn có thể quay lại hình ảnh để cung cấp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền nhằm thực hiện xử lý hành vi vi phạm hành chính của hàng xóm.
“Điều 7. Vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh chung
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
b) Tự ý đốt rác, chất thải, chất độc hoặc các chất nguy hiểm khác ở khu vực dân cư, nơi công cộng;
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường đối với hành vi quy định tại Điểm b, c, d, đ, e Khoản 1 và Điểm b, d Khoản 2 Điều này;”
Trên đây là tư vấn sơ bộ của chúng tôi đối với vấn đề của bạn. Để được tư vấn, hỗ trợ, bạn vui lòng liên hệ cho chúng tôi theo thông tin sau:
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư của Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ: Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Lừa đảo wa mạng
Tôi có bị lừa wa mạng giờ tôi mong muốn bên cty luật júp tôi lấy lại số tiền
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Lừa đảo wa mạng
Chào bạn, bạn vui lòng liên hệ Luật sư để được tư vấn, hỗ trợ nhé!
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Xã hội
Gia đình sinh 4con có được xét vào hộ nghè không hay có bi vi pham gì mong luât sư cho biết cảm ơn ạ
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Xã hội
Căn cứ Điều 3 Nghị định 07/2021 quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 như sau:
Chuẩn hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản (6 chỉ số) gồm: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm:
1. Việc làm: Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động.
2. Người phụ thuộc trong hộ gia đình: Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
3. Dinh dưỡng: Hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 16 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi hoặc suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi.
4. Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế.
5. Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng [Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm)].
6. Tình trạng đi học của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em từ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi không được học đúng bậc, cấp học phù hợp với độ tuổi (trẻ từ 3 tuổi đến dưới 6 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non, trẻ từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi được tiếp cận giáo dục tiểu học và trẻ từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi được tiếp cận giáo dục trung học cơ sở).
7. Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là tường, cột, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
8. Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2.
9. Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình không tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt (gồm: nước máy, giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ và nước mưa, nước đóng chai bình).
10. Nhà tiêu hợp vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh (gồm: tự hoại/bán tự hoại, thấm dội nước (Suilabh), cải tiến có ống thông hơi (VIP), hố xí đào có bệ ngồi, hai ngăn).
11. Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng dịch vụ internet.
12. Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh.
Như vậy, kể từ năm 2022 trở đi, nếu hộ gia đình ở thành thị mà có thu nhập bình quân đầu người từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như đã nêu trên thì được xét là hộ nghèo.
Do đó, việc gia đình bạn có 4 người con không phải điều kiện duy nhất để được xem xét là hộ nghèo.
Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã quy định rõ về nghĩa vụ của các cặp vợ chồng trong việc giữ mô hình gia đình có từ một đến hai con.
“Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản: 1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con; 2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định; 3. Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản”.
Trong một số trường hợp đặc biệt, được quy định tại Nghị định số 20/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số thì có một số trường hợp được coi là không vi phạm quy định việc sinh một hoặc hai con như sau:
“Điều 2. Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con: 1. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; 2. Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên; 3. Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên; 4. Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi; 5. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận; 6. Cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đã có con riêng (con đẻ), chỉ sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh. Quy định này không áp dụng cho trường hợp tái hôn giữa hai người đã từng có hai con chung trở lên và hiện đang còn sống; 7. Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.”
Nghị định số 18/2011/NĐ-CP ngày 17/3/2011 của Chính phủ về sửa đổi khoản 6 Điều 2 “Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con” thuộc Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số như sau:
“6. Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): a) Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ); b) Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống”.
Theo Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực kể từ 31/12/2013 (thay thế Nghị định 114/2006/NĐ-CP) thì không có chế tài “xử lý việc sinh con thứ ba” cũng như các văn bản, chính sách hiện hành không có bất kỳ quy định nào xử phạt người sinh con thứ ba, đặc biệt là khi tiến hành khai sinh cho trẻ. Quyền được khai sinh cho trẻ là quyền đã được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Như vậy, việc bạn có nhiều hơn 3 người con không bị xem là vi phạm pháp luật.
Hi vọng nội dung tư vấn trên giúp ích cho bạn. Trân trọng!
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Xã hội
Gia đình sinh 4con có được xét vào hộ nghè không hay có bi vi pham gì mong luât sư cho biết cảm ơn ạ
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Xã hội
Căn cứ Điều 3 Nghị định 07/2021 quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 như sau:
Chuẩn hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản (6 chỉ số) gồm: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm:
1. Việc làm: Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động.
2. Người phụ thuộc trong hộ gia đình: Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
3. Dinh dưỡng: Hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 16 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi hoặc suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi.
4. Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế.
5. Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng [Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm)].
6. Tình trạng đi học của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em từ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi không được học đúng bậc, cấp học phù hợp với độ tuổi (trẻ từ 3 tuổi đến dưới 6 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non, trẻ từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi được tiếp cận giáo dục tiểu học và trẻ từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi được tiếp cận giáo dục trung học cơ sở).
7. Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là tường, cột, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
8. Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2.
9. Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình không tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt (gồm: nước máy, giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ và nước mưa, nước đóng chai bình).
10. Nhà tiêu hợp vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh (gồm: tự hoại/bán tự hoại, thấm dội nước (Suilabh), cải tiến có ống thông hơi (VIP), hố xí đào có bệ ngồi, hai ngăn).
11. Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng dịch vụ internet.
12. Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh.
Như vậy, kể từ năm 2022 trở đi, nếu hộ gia đình ở thành thị mà có thu nhập bình quân đầu người từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như đã nêu trên thì được xét là hộ nghèo.
Do đó, việc gia đình bạn có 4 người con không phải điều kiện duy nhất để được xem xét là hộ nghèo.
Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã quy định rõ về nghĩa vụ của các cặp vợ chồng trong việc giữ mô hình gia đình có từ một đến hai con.
“Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản: 1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con; 2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định; 3. Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản”.
Trong một số trường hợp đặc biệt, được quy định tại Nghị định số 20/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số thì có một số trường hợp được coi là không vi phạm quy định việc sinh một hoặc hai con như sau:
“Điều 2. Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con: 1. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; 2. Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên; 3. Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên; 4. Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi; 5. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận; 6. Cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đã có con riêng (con đẻ), chỉ sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh. Quy định này không áp dụng cho trường hợp tái hôn giữa hai người đã từng có hai con chung trở lên và hiện đang còn sống; 7. Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.”
Nghị định số 18/2011/NĐ-CP ngày 17/3/2011 của Chính phủ về sửa đổi khoản 6 Điều 2 “Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con” thuộc Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số như sau:
“6. Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): a) Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ); b) Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống”.
Theo Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực kể từ 31/12/2013 (thay thế Nghị định 114/2006/NĐ-CP) thì không có chế tài “xử lý việc sinh con thứ ba” cũng như các văn bản, chính sách hiện hành không có bất kỳ quy định nào xử phạt người sinh con thứ ba, đặc biệt là khi tiến hành khai sinh cho trẻ. Quyền được khai sinh cho trẻ là quyền đã được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Như vậy, việc gia đình bạn có nhiều hơn 3 người con không bị xem là vi phạm pháp luật.
Hi vọng nội dung tư vấn trên giúp ích cho bạn. Trân trọng!
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Xã hội
Gia đình sinh 4con có được xét vào hộ nghè không hay có bi vi pham gì mong luât sư cho biết cảm ơn ạ
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Xã hội
Căn cứ Điều 3 Nghị định 07/2021 quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 như sau:
Chuẩn hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản (6 chỉ số) gồm: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm:
1. Việc làm: Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động.
2. Người phụ thuộc trong hộ gia đình: Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
3. Dinh dưỡng: Hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 16 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi hoặc suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi.
4. Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế.
5. Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng [Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm)].
6. Tình trạng đi học của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em từ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi không được học đúng bậc, cấp học phù hợp với độ tuổi (trẻ từ 3 tuổi đến dưới 6 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non, trẻ từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi được tiếp cận giáo dục tiểu học và trẻ từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi được tiếp cận giáo dục trung học cơ sở).
7. Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là tường, cột, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
8. Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2.
9. Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình không tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt (gồm: nước máy, giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ và nước mưa, nước đóng chai bình).
10. Nhà tiêu hợp vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh (gồm: tự hoại/bán tự hoại, thấm dội nước (Suilabh), cải tiến có ống thông hơi (VIP), hố xí đào có bệ ngồi, hai ngăn).
11. Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng dịch vụ internet.
12. Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh.
Như vậy, kể từ năm 2022 trở đi, nếu hộ gia đình ở thành thị mà có thu nhập bình quân đầu người từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như đã nêu trên thì được xét là hộ nghèo.
Do đó, việc gia đình bạn có 4 người con không phải điều kiện duy nhất để được xem xét là hộ nghèo.
Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã quy định rõ về nghĩa vụ của các cặp vợ chồng trong việc giữ mô hình gia đình có từ một đến hai con.
“Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản: 1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con; 2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định; 3. Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản”.
Trong một số trường hợp đặc biệt, được quy định tại Nghị định số 20/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số thì có một số trường hợp được coi là không vi phạm quy định việc sinh một hoặc hai con như sau:
“Điều 2. Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con: 1. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; 2. Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên; 3. Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên; 4. Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi; 5. Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng Giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận; 6. Cặp vợ chồng mà một hoặc cả hai người đã có con riêng (con đẻ), chỉ sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh. Quy định này không áp dụng cho trường hợp tái hôn giữa hai người đã từng có hai con chung trở lên và hiện đang còn sống; 7. Phụ nữ chưa kết hôn sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh.”
Nghị định số 18/2011/NĐ-CP ngày 17/3/2011 của Chính phủ về sửa đổi khoản 6 Điều 2 “Những trường hợp không vi phạm quy định sinh một hoặc hai con” thuộc Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số như sau:
“6. Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): a) Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ); b) Sinh một con hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống”.
Theo Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, có hiệu lực kể từ 31/12/2013 (thay thế Nghị định 114/2006/NĐ-CP) thì không có chế tài “xử lý việc sinh con thứ ba” cũng như các văn bản, chính sách hiện hành không có bất kỳ quy định nào xử phạt người sinh con thứ ba, đặc biệt là khi tiến hành khai sinh cho trẻ. Quyền được khai sinh cho trẻ là quyền đã được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Như vậy, việc gia đình bạn có nhiều hơn 3 người con không bị xem là vi phạm pháp luật.
Hi vọng nội dung tư vấn trên giúp ích cho bạn. Trân trọng!
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Gia đình
Gia đình sinh 4con có xét vào hộ nghèo không
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Gia đình
Căn cứ Điều 3 Nghị định 07/2021 quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 như sau:
Chuẩn hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản (6 chỉ số) gồm: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm:
1. Việc làm: Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động.
2. Người phụ thuộc trong hộ gia đình: Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
3. Dinh dưỡng: Hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 16 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi hoặc suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi.
4. Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế.
5. Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng [Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm)].
6. Tình trạng đi học của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em từ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi không được học đúng bậc, cấp học phù hợp với độ tuổi (trẻ từ 3 tuổi đến dưới 6 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non, trẻ từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi được tiếp cận giáo dục tiểu học và trẻ từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi được tiếp cận giáo dục trung học cơ sở).
7. Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là tường, cột, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
8. Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2.
9. Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình không tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt (gồm: nước máy, giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ và nước mưa, nước đóng chai bình).
10. Nhà tiêu hợp vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh (gồm: tự hoại/bán tự hoại, thấm dội nước (Suilabh), cải tiến có ống thông hơi (VIP), hố xí đào có bệ ngồi, hai ngăn).
11. Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng dịch vụ internet.
12. Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh.
Như vậy, kể từ năm 2022 trở đi, nếu hộ gia đình ở thành thị mà có thu nhập bình quân đầu người từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như đã nêu trên thì được xét là hộ nghèo.
Do đó, việc gia đình bạn có 4 người con không phải điều kiện duy nhất để được xem xét là hộ nghèo.
Hi vọng nội dung tư vấn trên giúp ích cho bạn. Trân trọng!
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
-
Gia đình
Gia đình sinh 4con có xét vào hộ nghèo không
Luật sư Nguyễn Trung Hiếu đã trả lời
Gia đình
Căn cứ Điều 3 Nghị định 07/2021 quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025 như sau:
Chuẩn hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Khu vực thành thị là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản (6 chỉ số) gồm: Việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin.
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (12 chỉ số), gồm:
1. Việc làm: Hộ gia đình có ít nhất một người không có việc làm (người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, sẵn sàng/mong muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm); hoặc có việc làm công ăn lương nhưng không có hợp đồng lao động.
2. Người phụ thuộc trong hộ gia đình: Hộ gia đình có tỷ lệ người phụ thuộc trong tổng số nhân khẩu lớn hơn 50%. Người phụ thuộc bao gồm: trẻ em dưới 16 tuổi; người cao tuổi hoặc người khuyết tật đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
3. Dinh dưỡng: Hộ gia đình có ít nhất một trẻ em dưới 16 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi hoặc suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi.
4. Bảo hiểm y tế: Hộ gia đình có ít nhất một người từ đủ 6 tuổi trở lên hiện không có bảo hiểm y tế.
5. Trình độ giáo dục của người lớn: Hộ gia đình có ít nhất một người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 30 tuổi không tham gia các khóa đào tạo hoặc không có bằng cấp, chứng chỉ giáo dục đào tạo so với độ tuổi tương ứng [Người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học cơ sở; từ 18 tuổi đến 30 tuổi đang học hoặc đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc sơ cấp/trung cấp/cao đẳng nghề; hoặc người từ 16 tuổi đến 30 tuổi được doanh nghiệp tuyển dụng và chứng nhận đào tạo nghề tại chỗ (hình thức vừa học vừa làm)].
6. Tình trạng đi học của trẻ em: Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em từ 3 tuổi đến dưới 16 tuổi không được học đúng bậc, cấp học phù hợp với độ tuổi (trẻ từ 3 tuổi đến dưới 6 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non, trẻ từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi được tiếp cận giáo dục tiểu học và trẻ từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi được tiếp cận giáo dục trung học cơ sở).
7. Chất lượng nhà ở: Hộ gia đình đang sống trong ngôi nhà/căn hộ thuộc loại không bền chắc (trong ba kết cấu chính là tường, cột, mái thì có ít nhất hai kết cấu được làm bằng vật liệu không bền chắc).
8. Diện tích nhà ở bình quân đầu người: Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2.
9. Nguồn nước sinh hoạt: Hộ gia đình không tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt (gồm: nước máy, giếng khoan, giếng đào được bảo vệ, nước khe/mó được bảo vệ và nước mưa, nước đóng chai bình).
10. Nhà tiêu hợp vệ sinh: Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh (gồm: tự hoại/bán tự hoại, thấm dội nước (Suilabh), cải tiến có ống thông hơi (VIP), hố xí đào có bệ ngồi, hai ngăn).
11. Sử dụng dịch vụ viễn thông: Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng dịch vụ internet.
12. Phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Hộ gia đình không có phương tiện nào trong số các phương tiện phục vụ tiếp cận thông tin: Phương tiện dùng chung: Tivi, radio, máy tính để bàn, điện thoại; Phương tiện cá nhân: Máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh.
Như vậy, kể từ năm 2022 trở đi, nếu hộ gia đình ở thành thị mà có thu nhập bình quân đầu người từ 2 triệu đồng/tháng trở xuống và thiếu hụt từ ba chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản như đã nêu trên thì được xét là hộ nghèo.
Do đó, việc gia đình bạn có 4 người con không phải điều kiện duy nhất để được xem xét là hộ nghèo.
Hi vọng nội dung tư vấn trên giúp ích cho bạn. Trân trọng!
Mọi vướng mắc hoặc cần sự hỗ trợ bạn có thể liên hệ với Luật sư Chân Thiện Mỹ qua những phương thức sau:
Liên hệ qua Hotline hoặc Zalo:
0917 333 769 - Luật sư Nguyễn Trung Hiếu - Giám đốc Công ty Luật Chân Thiện Mỹ
Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ:
Số 94 Nguyễn Hữu Tiến, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ qua Email: lsnguyentrunghieu@gmail.com
Website: Công ty Luật Chân Thiện Mỹ