ĐÁNH BẠC ONLINE CÓ BỊ TRUY TỐ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ HAY KHÔNG?
Câu hỏi:
Chào Luật sư,
tôi có vấn đề cần Luật sư tư vấn như sau:
Tôi có đánh bạc online với giá trị bằng tiền là 5.000.000 đồng. Nếu bị bắt thì tôi có bị truy tố trách nhiệm hình sự không? Và hình phạt như thế nào? Số tiền đánh bạc để xác định trách nhiệm hình sự được tính ở từng lần đánh bạc hay là tổng tất cả các lần đánh bạc từ trước đến nay của tôi? Mong Luật sư tư vấn, xin cảm ơn.
Chào bạn
Về vấn đề pháp
lý mà bạn hỏi, Luật sư xin được tư vấn như sau:
Pháp luật Việt Nam
nghiêm cấm việc đánh bạc và tổ chức đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào. Do đó,
người đánh bạc online khi bị phát hiện vẫn bị xử lý hình sự nếu có dấu hiệu về
tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ
thể:
"1. Người nào
đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thu bằng tiền hay hiện vật trị
giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật
này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này,
chưa được xóa
2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất
chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện
vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng
internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy
hiểm.
3. Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."
Theo đó, trong
trường hợp bạn đánh bạc online mà được thu bằng tiền 5.000.000 đồng thì bạn vẫn
bị truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 321 BLHS 2015.
Bên cạnh đó,
theo hướng dẫn của TANDTC về tội đánh bạc như sau:
"Khi xác định
trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị
hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng
lần đánh bạc để xem xét;
- Trường hợp tổng
số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối
thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thuộc một trong các trường hợp
khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này ..., chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội đánh bạc;
- Trường hợp tổng
số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức
tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
- Trường hợp
đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của
từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự
và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc
phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung
“có tính chất chuyên nghiệp”...
Theo quy định trên, khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc thì phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét chứ không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc.
Ngoài ra, theo Công văn 80/TANDTC-PC hướng dẫn:
"1. Kể từ ngày 09-12-2015 (ngày công bố Bộ luật hình sự năm 2015) đến hết ngày 30-6-2016, đối với người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
2. Kể từ ngày 01-7-2016, nếu hành vi đánh bạc trái phép dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích mới bị phát hiện, Điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
3. Đồng thời với việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, người được miễn trách nhiệm hình sự, đình chỉ vụ án không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có) thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp xét thấy hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cùng với việc đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển quyết định đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ án, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm và đề nghị xử lý vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền."
Trên đây là ý kiến
tư vấn có tính chất tham khảo theo quy định pháp luật. Hy vọng những thông tin
trên giúp ích cho bạn.
V&HM tổng hợp
THÔNG TIN LIÊN QUAN
Lĩnh vực Hình Sự
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư