Bị người quen mượn xe mang đi cầm
Thưa luật sư:
Tôi bị một người quen mượn xe và mang đi cầm 10 triệu, giấy tờ xe tôi vẫn giữ. Vụ việc xảy ra tại nhà tôi, nhà tôi ở huyện, và người cầm xe ở thành phố. Sau đó, tôi trình báo công an huyện và 1 tháng vẫn chưa bắt được người lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó, mặc dù anh ta ở nhà và quanh nhà. Hiện tại, anh ta muốn tôi tự bỏ tiền ra chuộc xe về và anh ta nói sẽ viết giấy nợ số tiền cầm cho tôi, vì anh ta không có tiền. Anh ta và chủ cửa hàng cầm đồ quen biết nhau.
Và sau đây, tôi xin luật sư giải đáp cho tôi:
1. Nhà anh ta ở thành phố còn nhà tôi ở huyện, anh ta mượn xe tại nhà tôi đi và cầm, vậy tôi có nên rút đơn ở huyện để kiện lên thành phố nơi anh ta sống không, vì có vẻ công an huyện không nhiệt tình làm việc?
2. Tôi có nên bỏ tiền ra chuộc xe không? Vì tôi nghĩ chủ cầm đồ để lâu sợ sẽ tẩu tán mất xe tôi!
3. Chiếc xe của tôi là xe AriBlade trị giá khoảng 30 triệu, anh ta cầm 10 triệu. Vậy nếu tôi không chuộc mà để pháp luật xử lý liệu tôi có lấy lại được xe không, vì gia đình anh ta tuy có tiền nhưng không muốn lo cho anh ta!
Xin luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi, tôi xin cảm ơn luật sư!
5 Luật sư trả lời
Chào bạn!
Trước tiên xin trân trọng cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn và giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Cơ sở pháp lý
Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009
Trong trường hợp này bạn vẫn có thể làm đơn tố cáo gửi ra cơ quan cảnh sát điều tra công an quận huyện nơi người đó cư trú để yêu cầu giải quyết. Hành vi của người đó có thể bị khởi tố hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu ngay từ ban đầu người đó đã có mục đích lấy xe của bạn mang đi cầm cố nhưng nói dối là mượn. Hoặc có thể bị khởi tố hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu ban đầu thật sự mượn xe ý định sẽ mang trả nhưng vì hoàn cảnh khó khăn buộc phải đem xe của bạn đi cầm cố. Vấn đề xác định tội danh cụ thể còn phụ thuộc vào kết quả của cơ quan điều tra.
Bạn có thể tham khảo ở các quy định sau của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định như sau:
“Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Trong trường hợp này thì bạn nên gửi đơn tố giác đến hai nơi là: công an huyện nơi bạn cư trú và công an quận nơi mà người này thực hiện hành vi là cầm xe của bạn.
Khi bạn có đơn trình báo thì công an sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin theo đơn của bạn. Thời hạn để công an kiểm tra, xác minh nguồn tin và trả lời bạn theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự là 20 ngày, nếu phức tạp có thể kéo dài nhưng không quá 2 tháng. Nếu bạn trình báo sự việc với công an mà sau đó công an không có đủ căn cứ xử lý hình sự đối với người vay tiền thì sẽ có văn bản trả lời bạn. Khi đó bạn có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi nợ.
Trong trường hợp này bạn không nên chuộc xe về vì nếu bạn chuộc xe về thì cơ quan công an sẽ không giải quyết tố cáo của bạn.
Chiếc xe cầm cố có giấy hẹn để chuộc lại xe và hiện tại xe đi cầm không có giấy tờ xe nên chủ tiệm cầm đồ sẽ bảo quản xe của bạn cho đến khi đến thời gian hẹn chuộc xe chứ không tẩu tán xe của bạn được.
Nếu còn bất cứ vướng mắc gì thì bạn vui lòng liên hệ Nguyễn Hòa Thuận để được trao đổi và tư vấn trực tiếp.
Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách!
Trân trọng ./.
Luật sư Nguyễn Hòa Thuận.
Về câu hỏi của bạn, Luật sư tư vấn như sau:
1. Về thẩm quyền điều tra
Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền điều tra như sau:
“Điều 110. Thẩm quyền điều tra
…. 4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.”
Theo quy định trên thì việc xác định thẩm quyền trước hết cần căn cứ vào nơi tội phạm xảy ra, tức là địa danh hành chính mà người phạm tội thực hiện tội phạm và cơ quan chỉ có thẩm quyền điều tra đối với những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, hoặc nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
2. Về việc có nên chuộc xe về hay không.
Khi bạn làm đơn tố giác tội phạm thì cơ quan công an có trách nhiệm điều tra, xác minh vụ việc và chiếc xe của bạn sẽ là vật chứng của vụ án. Việc bạn chuộc chiếc xe về có thể gây ảnh hưởng đến việc điều tra, xác minh của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, việc để chiếc xe tại hiệu cầm đồ cũng có thể dẫn đến việc bị chiếc xe bị tẩu tán. Vì vậy, bạn nên nhanh chóng yêu cầu cơ quan công an tiến hành điều tra vụ việc.,
3. Về việc xử lý vật chứng
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về việc xử lý vật chứng như sau:
“Điều 76. Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được xử lý như sau:
… b) Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước…;
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền quyết định trả lại những vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án…”
Chiếc xe là tài sản thuộc sở hữu của bạn nên sẽ được trả lại cho bạn, còn khi nào sẽ được trả lại thì phụ thuộc vào quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên đây là tư vấn của Luật sư trên cơ sở thông tin bạn cung cấp. Bạn có thể liên hệ trực tiếp với Luật sư để được tư vấn cụ thể hơn.
Trân trọng!
Luật sư Nguyễn Đức Biên
Luật sư Nguyễn Đức Biên.
Luật sư Dương Văn Mai, Công ty Luật Bách Dương, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn Nguyễn Thị Hòa như sau:
Việc bạn cho mượn xe rồi người mượn xe lại mang xe của bạn đi cầm cố tại một cửa hàng cầm đồ nên hành vi này có thể phạm một trong hai tội: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 hoặc Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó về tội danh nào thì còn phải phụ thuộc vào các tình tiết thực tế của sự việc. Nội dung hai điều luật này quy định như sau:
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
Về thẩm quyền giải quyết vụ việc, theo thông tin bạn cung cấp thì sự việc xảy ra tại huyện nơi bạn sinh sống nên bạn tố cáo người đó đến công an huyện là đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Về nguyên tắc cơ quan công an có thời gian 20 ngày kể từ ngày nhận được tin báo, đơn tố cáo của công dân để tiến hành xác minh, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì để nghị Viện kiểm sát cùng cấp khởi tố vụ án hình sự.
Bạn có thể tiếp tục liên hệ cơ quan công an đề nghị cơ quan này thụ lý giải quyết vụ việc.
Thứ hai bạn cũng không nên đưa tiền để chuộc xe vì bạn đang là người bị hại, chiếc xe là tang vật của vụ án.
Luật sư Dương Văn Mai.
Chào bạn
Với câu hỏi của bạn tôi tư vấn cho bạn như sau.
1. Về thẩm quyền điều tra vụ án hiện nay theo qui định của pháp luật thì thuộc cơ quan điều tra nơi hành vi phạm tội xảy ra. Anh ta thực hiện hành vi mượn xe tại nhà bạn là ở huyện sau đó cầm ở thành phố, nay bạn tố cáo đến công an huyện và họ đang giải quyết thì theo tôi bạn nên để họ tiếp tục điều tra. Nếu công an huyện có hành vi bao che thì bạn khiếu nại đến thủ trưởng để được giải quyết, nếu là thủ trưởng bao che thì khiếu nại lên công an tỉnh.
2. Bạn không cần chuộc xe vì khi công an xác định đối tượng kia là tội phạm và chiếc xe là vật chứng của vụ án thì công an có trách nhiệm thu hồi xe và trả lại cho bạn. Người cầm xe biết rõ công an đang điều tra mà dám tẩu tán sẽ bị xử lý ngay nên bạn yên tâm.
3. Như tôi đã nói chiếc xe là của bạn và vật chứng của vụ án nên bạn sẽ được nhận lại miễn phí mà không mất một số tiền nào cả.
Vài ý để bạn có thêm thông tin cho trường hợp của mình, nếu cần hỗ trợ thêm bạn có thể liên hệ với tổng đài để tôi tư vấn miễn phí.
Thân ái!
Luật sư Thái Bình Dương
Luật sư Thái Bình Dương.
1/ Nên tố cáo Công an thành phố nơi anh ta cư trú (bạn phải chuẩn bị đầy đủ chứng cứ chứng minh việc đó)
2/ Việc cầm xe mà không có giấy tờ sở hữu thì việc bán tài sản là không dễ và vi phạm pháp luật: có dấu hiệu tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
3/ Theo tôi, bạn nên chủ động chuộc xe lại (nhớ làm giấy tờ cẩn thận) sau đó tố cáo hoặc khởi kiện
Luật sư Nguyễn Hoài Phong
Luật sư Nguyễn Hoài Phong.
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư