Mức phạt của tội lừa đảo khi đã được nguyên đơn bãi nại
Nhờ luật sư tư vấn và trả lời giúp câu hỏi về pháp luật.
Người mắc tội lừa đảo với số tiền 157 triệu đồng, khi bị khởi tố, gia đình đã trả hết, nguyên đơn đã nộp giấy bãi nại thì sẽ bị xử ở mức tội như thế nào? Có được hưởng án treo không? Nếu được mức án treo thì có được khôi phục lại công việc đã làm trước khi bị bắt không?
4 Luật sư trả lời
Chào bạn!
Với trường hợp của bạn, tôi có quan điểm như sau:
Người bị khởi tố về tội lừa đảo với số tiền 157 triệu đồng thuộc trường hợp quy định tại điểm 2 khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự, bị chịu mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Khi bị khởi tố, gia đình đã trả hết số tiền, nguyên đơn đã nộp giấy bãi nại, đây sẽ là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Để được hưởng án treo, người phạm tội cần có điều kiện theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự:
\"Điều 60. Án treo
1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.\"
Trong trường hợp người phạm tội được hưởng án treo thì theo quy định tại Điều 32 và Điều 33 Bộ luật lao động, người lao động sẽ được nhận làm việc lại sau thời gian tạm hoãn do bị tạm giam, tạm giữ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư. Nếu còn vấn đề nào thắc mắc cần làm rõ, bạn có thể liên hệ trực tiếp để được giải đáp.
Trân trọng!
Luật sư Trần Xuân Thành
Luật sư Trần Xuân Thành.
Theo quy định của Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự, quy định về vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Theo đó, việc rút yêu cầu khởi một cách hoàn toàn tự nguyện, không có dấu hiệu của ép buộc hay cưỡng bức sẽ dẫn đến việc đình chỉ vụ án ở mọi giai đoạn của quá trình tố tụng của một vụ án hình sự, nghĩa là bên gây thiệt hại ( người đang bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc những người có liên quan khác trong vụ án) sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đơn bãi nại chỉ có thể đình chỉ những vụ án chỉ có thể được khởi tố dựa trên yêu cầu của người bị hại mà thôi. Cụ thể, danh sách những tội danh chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của họ nêu trên.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì đơn bãi nại tự nguyện, hợp pháp của người yêu cầu khởi kiện chỉ có hiệu lực làm đình chỉ vụ án trong những vụ án hình sự về các tội được nêu ở trên. Điều đó đồng nghĩa với việc không phải trong mọi trường hợp có đơn bãi nại thì bên gây thiệt hại đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, riêng trường hợp của bạn không thuộc trường hợp này.
Đối với trường hợp của bạn hỏi, như tôi đã phân tích ở trên, anh ta phạm phải tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999. Người vi phạm tội danh này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đơn bãi nại của người bị hại. Người kia phạm tội theo điểm e khoản 2 điều 39 BLHS:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
…
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;”
Theo quy định tại khoản 1 điều 60 Bộ Luật hình sự năm 1999 có quy định về án treo: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.” để cụ thể hoá điều này thì tại tiểu mục 6.1 mục 6 Nghị quyết Số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 để được hưởng án treo, người phạm tội phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
“a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;
c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;
d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Mặt khác bạn phạm tội quy định tại khoản 2 điều 139 có khung hình phạt từ 2 đến 7 năm đồng thời có những tình tiết được xem xét được coi là tình tiết giảm nhẹ như có đơn bãi nại, khắc phục hậu quả ... thì có thể khi xét xử và tuyên án bạn sẽ có cơ hội được Toà cho hưởng án treo nếu đáp ứng đủ điều kiện nêu trên.
Bạn không nói rõ là bạn mong muốn đi làm dưới hình thức nào nên để giải quyết vấn đề ” hưởng án treo có được khôi phục việc làm cũ không”, chúng tôi xin đưa ra các hướng tư vấn cụ thể như sau:
Thứ nhất, giả sử ngoài mức án treo, bạn còn phải chịu hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Theo Điều 36, BLHS 1999 quy định về Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định như sau:
“Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó, thì có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.”
Như vậy nếu giả sử trên giống trường hợp của bạn thì có nghĩa pháp luật không cho phép bạn tiếp tục đảm nhiệm loại công việc cũ trong thời hạn một năm đến năm năm tùy theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, việc cấm đảm nhiệm chức vụ cấm hành nghề hoặc công việc này chỉ áp dụng đối với công việc được ghi trong bản án của Tòa. Có nghĩa, ngoài công việc đó ra, bạn hoàn toàn có thể làm công việc khác phù hợp với khả năng, nguyện vọng của bản thân.
Thứ hai, giả sử bạn được hưởng án treo và không có hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Theo quy định của pháp luật, người được hưởng án treo sẽ luôn luôn phải đối mặt với thời gian thử thách và sẽ bị hạn chế những quyền nhất định. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không có quy định nào cấm người được hưởng án treo không được đi làm. Cho nên bạn vẫn có thể làm những công việc phù hợp với khả năng, nguyện vọng của mình.
Luật sư Vũ Văn Toàn.
Chào bạn!
Trước tiên xin trân trọng cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn và giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Cơ sở pháp lý:
Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009
Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Căn cứ theo Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“ 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
…………………”
Như vậy, hành vi của người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”.
Bên cạnh đó, căn cứ theo Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại quy định như sau:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không được liệt kê vào tội khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên mặc dù gia đình người phạm tội đã trả hết số tiền còn lại và người bị hại rút đơn khởi kiện nhưng do hành vi của người phạm tội vi phạm pháp luật Điều 139 Bộ Luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên cơ quan điều tra vẫn sẽ tiến hành khởi tố theo đúng quy định về tố tụng hình sự.
Những trường hợp gia đình người phạm tội trả hết số tiền đã lừa đảo thì việc trả tiền này là việc Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và việc bên bị hại bãi nại thì hai tình tiết này cũng được xem là tình tiết giảm nhẹ trong vụ án hình sự. Với hai tình tiết giảm nhẹ trên cộng với nhân thân của người phạm tội và gia đình người phạm tội tốt và trong khi đó người phạm tội, phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc khoản 1 điều 139 Bộ luật hình sự 1999 vì vậy tòa án có thể xem xét các tình tiết trên cho người phạm tội hưởng án treo.
Trường hợp này bạn nên thuê Luật sư đứng ra làm các thủ tục giúp bạn chứng minh các tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên (vì việc chứng minh thật sự không dễ dàng nếu như bạn không am hiểu về pháp luật) như vậy người phạm tội được hưởng án treo sẽ cao hơn.
Nếu còn bất cứ vướng mắc gì thì bạn vui lòng liên hệ Luật sư Nguyễn Hòa Thuận để được trao đổi và tư vấn trực tiếp.
Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách!
Trân trọng ./.
Luật sư Nguyễn Hòa Thuận.
Đối với câu hỏi của bạn, luật sư tư vấn như sau:
Trong trường hợp này, tình tiết gia đình đã trả hết số tiền chiếm đoạt, và người bị hại đã có đơn bãi nại thì hai tình tiết này được xác định là các tình tiết giảm nhẹ thuộc Điều 46 Bộ luật hình sự, tuy nhiên, thì để được hưởng án treo thì người phạm tội phải thỏa mãn các điều kiện quy định Điều 60 Bộ luật hình sự như hình phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Trong trường hợp, nếu người phạm tội được hưởng án treo, thì căn cứ vào Điều 32 và Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012 thì người phạm tội sẽ được khôi phục công việc đã làm trước khi bị tạm giam.
Trên đây là toàn bộ ý kiến tư vấn của luật sư! Trân trọng.
Luật sư Nguyễn Đức Biên
Luật sư Nguyễn Đức Biên.
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư