Tin nhắn đe dọa
Con tên Nhi có một người dượng, ông ta và mẹ con hai người không đăng kí kết hôn nhưng khi ông có những hành vi đánh đập mẹ và em con (6 tuổi) mẹ con đòi kết thúc với ông nhưng ông không chịu cứ đi theo mẹ con và tiếp tục đánh đập chửi rủa (con không có bằng chứng nhưng nhân chứng là người nhà con), đến một ngày mẹ con chịu không nổi thì dắt con và em con bỏ trốn, thì ông có gửi những tin nhắn đe dọa nếu mẹ con mà không đem em con về thì sẽ làm cho anh hai con bị si đa, ông ta đã bị si đa và con có bằng chứng là những tin nhắn mà ông đã gửi thì thưa luật sư nếu con kiện thì ông ta có bị phạt không và mức phạt là gì? Cảm ơn luật sư
8 Luật sư trả lời
Cám ơn Huỳnh Thị Ngọc Nhi đã gởi câu hỏi
Theo như tình huống của Nhi trình bày thì người cha dượng và mẹ của con không phải là vợ chồng theo pháp luật.
Mối quan hệ giữa mẹ con và người này không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ gì của đôi bên, mẹ con muốn chấm dứt quan hệ với ông ta hay tiếp tục đều không phải là hành vi vi phạm pháp luật.
Do đó, nếu ông ta có hành vi đe dọa mẹ con thì tùy theo mức độ có thể bị xử lý là \"đe dọa giết người\" theo quy định của BLHS, hoặc mẹ con kiện ông ta yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần, yêu cầu chấm dứt hành vi đe dọa.
Tuy nhiên, để cho có cơ sở hơn thì trước khi kiện ông ta mẹ con nên trình báo với công an xã/phường nơi ông ta đang cư trú để nơi đây xử lý ông ta bằng biện pháp hành chính trước.,
Chúc mẹ con con vui, bình an
Luật sư: Thái Thị Diễm Trúc
Luật sư Thái Thị Diễm Trúc.
Chào bạn!
Vời trường hợp này, bạn nên làm đơn tới cơ quan công an hoặc VKSND để yêu cầu các cơ quan này có biện pháp bảo vệ các thành viên trong gia đình.
Với hành vi của dượng bạn thì người này đã có hành vi đánh đập chửi bới xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác. Mặc dù hành vi này chưa đến mức bị xử lý hình sự nhưng có căn cứ để xử phạt hành chính quy định tại Nghị định 167 năm 2013.
Thân chào.
Luật sư Lê Văn Hoan.
Luật sư trả lời tư vấn như sau:
Thứ nhất về quan hệ gia đình: Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định như sau: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”.
Trong trường hợp này thì cha dượng và mẹ bạn sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được coi như vợ chồng. Hành vi của cha dượng là vi phạm pháp luật về bạo hành gia đình sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật bằng hình thức phạt hành chính hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể xử lý về trách nhiệm hình sự. Nên người bị hại nên trình báo chính quyền địa phương (công an, hội phụ nữ...) để được giải quyết.
Thứ hai về bệnh (HIV/AIDS): Theo qui định tại Điều 2 Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006. HIV (Si đa) là virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. HIV (si đa) gây tổn thương hệ thống miễn dịch của cơ thể và làm cho cơ thể không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh dẫn đến chết người.
HIV có thể lây truyền qua quan hệ tình dục, qua đường máu hoặc truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai, sinh đẻ và cho con bú.
Căn cứ theo Điều 8 của Luật phòng, chống nhiễm vi rút quy định về những hành vi bị nghiêm cấm.
1. Cố ý lây truyền hoặc truyền HIV cho người khác.
2. Đe dọa truyền HIV cho người khác.
3. Kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
4. Cha, mẹ bỏ rơi con chưa thành niên nhiễm HIV; người giám hộ bỏ rơi người được mình giám hộ nhiễm HIV.
5. Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người đó, trừ trường hợp quy định tại Điều 30 của Luật này.
6. Đưa tin bịa đặt về nhiễm HIV đối với người không nhiễm HIV.
7. Bắt buộc xét nghiệm HIV, trừ trường hợp quy định tại Điều 28 của Luật này.
8. Truyền máu, sản phẩm máu, ghép mô, bộ phận cơ thể có HIV cho người khác.
9. Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV.
10. Từ chối mai táng, hoả táng người chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS.
11. Lợi dụng hoạt động phòng, chống HIV/AIDS để trục lợi hoặc thực hiện các hành vi trái pháp luật.
12. Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật.”
Thứ ba về tôi phạm đe dọa giết người:
Căn cứ theo Điều 103, Bộ Luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về \"tội đe dọa giết người\" như sau:
1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với trẻ em;
d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.
Theo đó, thì việc dượng của cháu là người bị bệnh HIV/Sida, nên nhận thức rõ căn bệnh này là hiểm nghèo, nan y vô phương cứu chữa, đa phần sẽ gây tử vong cho người bệnh. Vì vậy ông dượng đã đe dọa bằng tin nhắn làm cho anh hai cháu lo sợ một cách có căn cứ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện là ông dượng sử dụng phương pháp giết người bằng cách là lây truyền căn bệnh này cho anh hai cháu nhiễm bệnh. Ông dượng biết trước hành vi của mình sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm cho tính mạng người khác và mong muốn hậu quả đó xẩy ra. Hành vi đã có dấu hiệu cấu thành \"tội đe dọa giết người\" nêu trên. Anh trai cháu và gia đình nên trình báo tố giác tội phạm đến cơ quan công an xã/phường hoặc cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện/quận nơi mình hoặc ông dượng cư trú để được giải quyết.
Trên đây là ý kiến tư vấn của Luật sư Hồ Phước Long - VPLS Nhân Quyền (Tp.HCM)
Luật sư Hồ Phước Long.
Phải có giám định y khoa bệnh của ông ấy. Tội phạm chỉ bị xử lý khi đã thực hiện hành vi lây nhiễm HIV. Do đó không có cơ sở tố cáo được
Luật sư Phạm Văn Sửu
Luật sư Phạm Văn Sửu.
Chào Nhi.
Việc nhắn tin đe dọa gây bệnh truyền nhiễm (sida) cho người thân trong gia đình bạn là trái pháp luật. Nếu có thể bạn và mẹ bạn cầm tin nhắn trên và liên hệ gấp với Công an phường (nơi bạn và mẹ bạn đang cư trú); cầm theo chứng minh nhân dân, hộ khẩu (hoặc đăng ký tạm vắng tạm trú) để trình báo sự việc và được giúp đỡ.
Trân trọng.
Luật sư Phạm Văn Sinh
Luật sư Phạm Văn Sinh.
Chào bạn!
Trước tiên xin trân trọng cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn và giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Cơ sở pháp lý:
Theo Điều 103 Bộ luật hình sự năm 1999 thì đe dọa giết người bị coi là tội phạm là hành vi đe dọa giết người mà hành vi đó có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện.
Hành vi đe dọa này có thể thực hiện qua điện thoại, tin nhắn, email, lời nói, cử chỉ… đã làm tâm lý người bị đe dọa lo sợ một cách có căn cứ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện và khi đó hành vi này sẽ cấu thành tội phạm. Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra sự lo sợ cho người khác, có thể dẫn đến hậu quả như lời đe dọa nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Tội phạm này xâm phạm đến quyền được sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Loại tội phạm này chỉ được coi là tội phạm ít nghiêm trọng có khung hình phạt có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm (khoản 1, Điều 103). Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết tăng nặng thuộc (điểm a,b,c,d, khoản 2, Điều 103) bị coi là tội phạm nghiêm trọng có khung hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Tuy nhiên, trong trường hợp người phạm tội chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có các tình tiết giảm nhẹ hoặc tác hại gây ra không lớn … thì được gia đình hoặc cơ sở được chỉ định nhận giám sát, giáo dục.
“Điều 103. Tội đe dọa giết người
1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với trẻ em;
d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.”
Đối với hành vi nhắn tin đe dọa nhưng không dọa giết người, khiến người nhận được tin nhắn sợ hãi, bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm, hành vi được điều chỉnh bởi Điều 66 Nghị Định 174/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, cụ thể là tại Điểm g Khoản 3. Theo đó, người nào có hành vi “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” thì có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.”
Trường hợp này, bạn có thể tư vấn người thân tố cáo hành vi của người vi phạm đó với cơ quan công an nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bạn và gia đình để ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
Mong rằng những gì chúng tôi cung cấp nêu trên giúp quý khách phần nào hiểu được quy định pháp luật. Còn bất cứ vướng mắc gì quý khách vui lòng liên hệ để gặp Luật sư Nguyễn Hòa Thuận để được tư vấn trực tiếp.
Xin chân thành cảm ơn sự đồng hành của quý khách!
Trân trọng ./.
Luật sư Nguyễn Hòa Thuận.
Chào bạn,
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, hôn nhân giữa nam và nữ phải xuất phát trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện. Đồng thời pháp luật cũng ngăn cấm sự bạo hành trong gia đình. Trường hợp mẹ của con bị đánh đập là hành vi bạo hành trong gia đình và qua đó cho thấy mẹ của con cũng không đồng ý chung sống với người đàn ông này. Do mẹ con chưa lập hôn thú với người này nên có thể không cần phải tiếp tục mối quan hệ này mà phải cần có bản án ly hôn của tòa án. Trường hợp người đàn ông này tiếp tục đeo đuổi hoặc quấy rối mẹ con thì mẹ con có thể làm đơn trình bày để nhờ chính quyền địa phương can thiệp (UBND, Hội Phụ nữ v.v...).
Trường hợp có chứng cứ để cho rằng người đàn ông này trực tiếp đe dọa đến tính mạng các người thân trong gia đình con thì mẹ con hoặc anh trai của con (nếu đã đủ 18 tuổi) có thể làm đơn tố cáo hành vi này của hắn theo Điều 103 (Tội đe dọa giết người) hoặc Điều 118 (Tội cố ý truyền HIV cho người khác) theo Bộ luật hình sự năm 1999. Đơn tố cáo được nộp tại Công an Xã/ Phường nơi thường trú của người bị đe dọa. Cơ quan công an sẽ xem xét và có thể khởi tố vụ án, khởi tố bắt tạm giam người đàn ông này nếu xét thấy có dấu hiệu vi phạm luật hình sự.
Thân mến.
Luật sư Nguyễn Mạnh Vỹ
Luật sư Nguyễn Mạnh Vỹ.
Câu hỏi của bạn có một số vấn đề sau:
1. Quan hệ của mẹ bạn và dượng không có đăng ký kết hôn và có con chung hay không, nếu có con chung thì hai bên nên giải quyết tại tòa án dứt điểm vì nếu có con chung sẽ là lý do để cho dượng bạn gây phiền hà cho mẹ bạn. Khi tòa giải quyết sẽ không công nhận hai người là vợ chồng và xác định người nuôi con, em bé 6 tuổi thì sẽ căn cứ vào điều kiện của một trong hai bên để giao quyền nuôi con nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho bé.
2. Hành vi của dượng hay đánh đập và chửi mẹ bạn đó là hành vi bạo lực gia đình cần phải ngăn chặn sớm không để hậu quả đáng tiếc xảy ra, hơn nữa ông dượng kia lại có hành vi đe dọa sẽ gây si da cho anh bạn nữa, việc này bạn cần làm đơn trình báo sự việc đến cơ quan công an nơi sở tại xã phường nơi bạn đang cư trú để họ có biện pháp ngăn chặn. Trong trường hợp này thì tùy theo mức độ hành vi và hậu quả đã xảy ra như thế nào, cơ quan công an sẽ xử lý ông dượng về hành chính hay hình sự.
Chúc bạn thành công.
Luật sư Đặng Văn Sơn
Luật sư Đặng Văn Sơn.
Không thể tìm thấy những gì bạn đang tìm kiếm?
Gửi một câu hỏi miễn phí trên diễn đàn công cộng của chúng tôi. Đặt một câu hỏi
Đặt câu hỏi- hoặc -
Tìm kiếm luật sư bằng cách đánh giá và xếp hạng..
Tìm kiếm luật sư


